PP
thở ngừa tai biến stroke, ngừa đột qụy heart attack, làm tăng giảm AH
Ý
nghĩa chẩn đoán bệnh qua máy đo áp huyết và insulin cân bằng đường
Bài
tập 20 phút làm hạ đường xuống được trung bình 5mmol/l=100mg/dL
Kiểm
chứng thức ăn bằng máy đo đường
Chúng
ta không nên tin tuyệt đối vào kết qủa thử nghiệm đường và sợ đường theo kết quả
của máy đo đường, chỉ có tính cách tương đối chưa chắc chúng ta là người đã bị
bệnh tiểu đường cao.
Phân
biệt : Người bị bệnh tiểu đường cao và người không bị bệnh tiểu đường khác nhau
thế nào?
A-Người
bị bệnh tiểu đường cao :
Trước
và sau khi ăn, khi đói hay khi no, hay bất cứ lúc nào thử đường đều cao trên
11mmol/l =200mg, mặc dù kiêng không ăn đường mà thử đường khi nào cũng cao, lý
do chức năng tuyến tụy không sản xuất insulin đủ để cân bằng lượng đường do lười
vận động.
B-Người
không bị bệnh tiểu đường :
Trước
khi ăn đo đường thấp, sau khi ăn đo đường cao vượt tiêu chuẩn tây y như
200-300mg/dL nhưng khi đói chân tay và cơ thể yếu mất năng lực đo đường tụt thấp,
thì những người này không có bệnh tiểu đường cao,
Vì
họ là những người làm việc lao động chân tay nặng nhọc như phu khuân vác, đạp
xích lô, làm ruộng, các nhà vận động thể dục thể thao...họ phải ăn no, ăn nhiều
mới có đủ sức làm việc không mệt mỏi mất sức, nên sau khi ăn đường có thể tăng
tới 300mg/dL, nhưng sau 2 giớ làm việc khuân vác, xuất mồ hôi , đo lại đường xuống
thấp trong tiêu chuẩn thì họ vẫn còn sức khỏe không bệnh tật, nếu họ không uống
thêm đường mà tiếp tục làm việc thì sẽ bị mất sức gây ra mệt mỏi kiệt sức lúc
đo đo đường sẽ thấp dưới 100mg/dL, dễ bị tchóng mặt lảo đảo, chân tay bủn rủn, ớn
lạnh toát mồ hôi, ngã quỵ, (tây y gọi là stroke) như tình trạng trúng gió là
lúc cơ thể mất năng lượng.
Điều
ngạc nhiên hơn, là dân Việt Nam có thói quen “ khoái ăn sang” là sáng ăn khoai,
nếu thời đó có máy đo đường chúng ta sẽ thấy, mỗi củ khoai sau khi ăn đường-huyết
tăng lên 10mmo/l, chúng ta thường ăn 3 củ đo đường-huyết sẽ lên đến 300mg/dL, nếu
lúc này chúng ta đi bác sĩ khám bệnh, bác sĩ sẽ kết luận chúng ta có bệnh tiểu
đường cao, nhưng thực ra sau 2 giờ bộ tiêu hóa chuyển hóa đường thành năng lượng
để làm việc không mệt mỏi, thì thử lại đường-huyết sẽ biến mất, nằm trong tiêu
chuẩn đói từ 6-8mmol/l (100-140mg/dL)
Đối
với môn KCYĐ khi đo đường huyết lúc no thì cao vượt tiêu chuẩn nhưng khi đói đường-huyết
lại thấp bình thường thì chúng ta không phải là người bị bệnh tiểu đường vì
chúng ta có vận động chuyển hóa đường thành năng lượng để làm việc mà không bị
mệt mỏi, nên chúng ta cần phải dùng đường mỗi ngày theo lời khuyên của Hiệp Hội
Tim Mạch Hoa Kỳ để tránh trường hợp bị bệnh suy tim và bệnh ung thư Tuyến tiền
liệt.
Hiệp
hội Tim mạch Hoa Kỳ đã thực hiện các khuyến nghị sau đây về giới hạn đường:
Trẻ
em = Giới hạn tới 3-4 muỗng cà phê mỗi ngày
phụ
nữ trưởng thành / thiếu niên = Giới hạn tới 5 muỗng cà phê mỗi ngày
nam
giới trưởng thành / thiếu niên = Giới hạn tới 8-9 muỗng cà phê mỗi ngày
Như
vậy đường cao mà có vận động thể lực thì chúng ta không sợ bị bệnh tiểu đường,
nhưng đường thấp sẽ gây ra những bệnh như sau :
Cảnh
báo : Những bệnh do thiếu đường, biến chứng bệnh phát sinh chỉ có 3 nguyên nhân
:
1-Chỉ
có biến chứng sau khi uống thuốc chữa bệnh tiểu đường đối với người bị tây y
cho là có bệnh tiểu đường, do tây y hạ thấp tiêu chuẩn đường-huyết thâp dưới
6.5 mmol/l=110md/dL như hiện nay.
2-Những
người tự cho là không có bị bệnh tiểu đường chiếm đa số, vì sợ biến chứng của bệnh
tiểu đường, do tây y tạo ra DỊCH BỆNH TIỂU ĐƯỜNG, khi đi khám bệnh, đo đường-huyết
thấp dưới 5.0mmol/l. bác sĩ nói tồt thì càng có nhiều biến chứng hơn những người
bị bệnh tiểu đường.
3-Bệnh
glycogen thiếu enzyme không chuyển hóa, do đường-huyết thấp
Biến
chứng của đường-huyết thấp do nguyên nhân 1 và 2 giống nhau :
Chúng
ta hãy theo dõi đường-huyết trong thống kê, những dấu hiệu bệnh thiếu đường khi
đói đều dưới 100mg/dL, khi no đều dưới 140mg/dL là nguyên nhân gây bệnh
Những
chứng bệnh do bệnh nhân khai dưới đây được thống kê chưa được tây y bổ sung vào
triệu chứng của bệnh đường-huyết thấp gây ra nhiều bệnh nan y mãn tính và cuối
cùng tế bào sẽ trở thành ung thư, gồm các bệnh như sau :
1-Bệnh
tiêu hóa :
Bệnh
yếu bao tử, bao tử ăn không tiêu, ợ hơi, trào ngược thực quản, bướu cổ,bao tử
teo nhỏ dần hay vách thành bao tử chai cứng dần không đàn hồi co bóp chuyển hóa
thức ăn, làm bụng căng cứng gây nghẹt tim, khó thở, thể lực không có sức yếu dần,
2-Bệnh
tim mạch :
Mệt
tim, hồi hộp, suy tim, nhịp tim đập chậm, cholesterol, mỡ bao tim làm hẹp van
tim
3-Bệnh
gan thận :
Suy
thận phải lọc thận 3 ngày/tuần, dị ứng, đau lưng xuống thận qua bụng ra sau
lưng dấu hiệu của sạn thận. suy thận ù tai, viên gan,gan nhiễm mỡ.
4-Bệnh
hô hấp :
Ho
suyễn kinh niên,
5-Bệnh
bài tiết :
Liệt
đường ruột, đi cầu ra phân sống, bệnh tiểu nhiều, hoặc bí tiểu do thoái hóa dạng
tinh bột, thận không lọc ra nước tiểu trong.
6-Bệnh
thần kinh:
Tê
nhức tay đau lưng, chân, đầu gối, gót chân, đi khó khăn, parkinson, thần kinh tọa,đau
nhức tê vai tay chân, nhức nửa đầu, đau đầu chóng mặt, đau nhức mỏi toàn thân,
bị chóng mặt hoa mắt, rối loạn tiền đình, đi đứng chậm chạp, người xanh xao, đi
hay lảo đảo, khi đi đau bàn chân, liệt mặt méo miệng, tê liệt bại xuội chân tay
vô lực do áp huyết thấp và đường thấp khác với stroke tai biến gây liệt cứng, động
kinh co giật, tay chân run rẩy co giật do đang thiếu đường.
7-Bệnh
mắt :
Hoa
mắt, mắt mờ dần phải thay kinh đeo mắt cho đến khi thiếu máu thiếu đường lên
nuôi mắt khiến mắt mù .mắt sụp, nhìn không có thần, hoăc mắt bị chói, thấy xung
quanh tối sầm thoáng qua,
8-Bệnh
xương khớp thoái hóa:
Thoái
hóa xương cổ, thoát vị đĩa đệm, vẹo cột sống, cứng cổ gáy vai,gout,lồi điã cột
sống, đầu cổ cứng không quay trái phải hay cúi ngửa được, thiếu đường sẽ bị
loãng xương, chân yếu đi hay bị té ngã gẫy xương,
9-Bệnh
tâm thần :
Giảm
trí nhớ, bệnh tâm thần, mất ngủ,
10-Bệnh
ung thư :
Ung
thư bao tử, ung thư phổi, ung thư vú, ung thư tử cung, u xơ tử cung ,(xơ hóa sợi
cơ, u lành tính tái phát tại chỗ, ung thư gan, ung thư ruột, ung thư đại tràng,
ung thư tuyến tiền liệt,
11-
Và bệnh thường gặp :
Bỗng
nhiên tụt thấp đường-huyết mà không biết, bị ớn lạnh xuất mồ hôi, chóng mặt xây
xẩm có dấu hiệu như trúng gió muốn té xỉu, phải uống đường ngay tức khắc chứ
không phải cạo gió bệnh nhân sẽ chết ngay nếu không cứu kịp bằng đường. ....
12-Mười
loại bệnh do glycogen thiếu enzyme không chuyển hóa đường :
1-Bệnh
dự trữ glycogen (GSD) loại bệnh I :
Là
bệnh làm hại gan thận làm thay đổi bạch cầu trung tính
2-Bệnh
dự trữ glycogen loại bệnh II:
Gây
ra bệnh tim, cơ bắp và xương, suy thoái cơ nghiêm trọng ảnh hưởng đến tim,
xương, và cơ hô hấp của bệnh nhân, sẽ bị chết vì suy tim và suy hô hấp,người bệnh
mất khả năng vận động phải nằm liệt giường, giảm chức năng hô hấp phải trợ thở
bằng máy, có thể tử vong do biến chứng của hô hấp và tim mạch, nguyên nhân do
trong thức ăn thiếu đường từ thức ăn, khi mà cơ thể không chuyển hóa được
glycogen dự trữ, chúng đã bị bệnh.
3-Bệnh
dự trữ glycogen bệnh loại III :
Bụng
sưng do gan lớn. Sự chậm trễ tăng trưởng trong thời thơ ấu. Lượng đường huyết
thấp. Nồng độ chất béo cao trong máu. Cơ bụng nhão.
4-Bệnh
dự trữ glycogen bệnh loại IV :
Là
bệnh Andersen do kết quả và tích tụ bất thường của glycogen trong gan, cơ và hoặc
mô làm sưng gan lách to, xơ gan, suy gan, gan có sẹo dẫn đến những biến chứng bất
thường của bệnh giảm trương lực cơ xương như yếu teo cơ, bệnh tim gây phù tổng
quát và hệ thần kinh trung ương ảnh hưởng đến bộ não và tủy sống, và hệ thần
kinh ngoại biên bao gồm điều hòa huyết áp, nhiệt độ, và nhịp tim, ảnh hưởng bệnh
này có khả năng đe dọa tính mạng dẫn đến cái chết sớm, hoặc có thể cấy ghép
gan.
Ngoài
ra, một số biến thể của bệnh thần kinh cơ Andersen- cho các bé mới sinh thấy rõ
khi mới sinh, vào cuối thời thơ ấu, hay trưởng thành. Bệnh di truyền do cha mẹ
kiêng đường làm suy yếu chức năng tụy tạng không giúp tế bào có đủ máu đủ đường
để phát triển.
Các
dây thần kinh ngoại vi mở rộng từ thần kinh trung ương đến cơ bắp, các tuyến,
da, giác quan, và cơ quan nội tạng. dây thần kinh ngoại biên bao gồm các dây thần
kinh vận động, dây thần kinh cảm giác, và thần kinh của hệ thần kinh tự trị, Có
thể bao gồm mất cảm giác ở chân, yếu cơ tiến triển của tay và chân, dáng đi rối
loạn, Khó khăn đi tiểu, suy giảm nhận thức nhẹ hoặc mất trí nhớ.
5-Bệnh
dự trữ glycogen bệnh loại V :
Bệnh
McArdle là một bệnh di truyền do cha mẹ thiếu đường sanh ra, gây ra đau cơ nặng
và bị chuột rút. Làm tổn thương cơ bắp, yếu cơ làm ảnh hưởng đến xương.
6-Bệnh
dự trữ glycogen loại VI :
Gọi
là bệnh Hers, thuộc nhóm lưu trữ glycogen ở gan.
Do
lượng đường trong máu thấp (hạ đường huyết do kiêng đường hay do dùng thuốc) có
thể gây ra các triệu chứng muốn ngất, yếu, đói, và căng thẳng. giảm trương lực
cơ và yếu cơ bắp nhẹ có thể xảy ra trong một số trường hợp.
7-Bệnh
dự trữ glycogen bệnh loại VII:
Còn
gọi là bệnh Tarui, là một rối loạn di truyền gây ra do cha mẹ kiêng đường, xuất
hiện trong thời kỳ thơ ấu gây ra đau cơ, xẩy ra sau khi vận động mạnh như thể dục,
dẫn đến buồn nôn và ói mửa, sẽ hại thận làm suy thận, gây ra bệnh vàng da và
tròng trắng của mắt bị vàng, và làm suy nhược cơ, di truyền cho trè sơ sinh suy
tim, khó thở thường không thể sống sót.
Đối
với người lớn tuổi sẽ bị yếu cơ bắp, thiếu hồng cầu, nguyên nhân thiếu đường
chuyển hóa nuôi máu làm ra bệnh tây y gọi là bệnh thiếu máu tan máu, các tế bào
máu đỏ bị chia nhỏ ra (gọi là tan máu) là thiếu hụt máu.
8-
Bệnh dự trữ glycogen bệnh loại VIII :
Trong
loại VIII, gan và não bị ảnh hưởng, có gan to, tổn thương dây thần kinh sọ não
thứ tư và run tay cùng bên nghiêm trọng, đánh dấu rung giật nhãn cầu, chóng mặt
và ói mửa, và có thể chặn dòng chảy dịch não tủy (tắc nghẽn não úng thủy), và
rung giật nhãn cầu, sự suy thoái thần kinh tiến triển đến co cứng, dẫn đến cái
chết.
9-Bệnh
Glycogen loại IX :
Loại
bệnh này không thể chuyển hóa glycogen, nên thừa nước tương tích tụ trong gan
làm gan sưng to bất thường do nhịn ăn hay thuốc làm hạ đường,, hoặc trong cơ bắp,
hoặc cả hai.
Gan
lớn ở trẻ em ở tuổi ấu thơ, do di truyền từ cha mẹ kiêng đường làm chúng chậm
tăng trưởng, trì hoãn sự phát triển vận động, ở người thanh thiếu niên không
phát triển bình thường về chiều cao, yếu gan, ở người lớn bị xơ hóa trong gan
khiến đau co rút gân cơ.
10-Bệnh
Glycogen loại X :
Loại
bệnh này chính là bệnh mất cân bằng đường và insulin do kiêng đường và đường
trong máu thấp và bệnh không chuyển hóa glycogene-glucose do thiếu enzyme.bao gồm
các loại bệnh từ loại I đến loại VII.
KẾT
LUẬN :
Chúng
ta không hè có bệnh tiểu đường, chỉ có thiếu đường mới gây ra bệnh cho chúng ta
đời nay và di tuyền bệnh cho con cháu đời sau do kiêng sợ đường.
Nếu
không có máy thử đường, khi có dấu hiệu như dưới đây là biết chúng ta đang bị tụt
thấp đường-huyết, phải uống đường, ăn 3 cục đường hay 2,3 bánh ngọt rắc đường,
uống 1 ly nước mía, uống 1 lon Coca, Pepsi, hay 5 cục kẹo nấu hoàn toàn bằng đường
không pha bột
Đổ
mồ hôi, mệt tim, khó thở, tay chân run, run sợ, hoa mắt chóng mặt, mắt tự nhiên
mờ, mặt sắc tái, yếu sức, chân tay lạnh như trúng gió, đầu ngón tay lạnh, xót
ruột, đói.
Dấu
hiệu này được gọi là hết hạn các hiệu ứng adrenergic của hạ đường huyết vì cơ
thể phản ứng với các mức độ glucose trong máu thấp bởi các thế hệ của các kích
thích tố phản quy định chủ yếu là adrenalin và glucagon. Sau đó đường huyết giảm
thấp hơn nữa thì co thêm những dấu hiệu thường là:
Nhầm
lẫn, khó chịu, đổi hành vi như vậy là gây hấn, kích động bạo lực hoặc trao đổi
cảm giác như vậy là nhìn mờ
Khi
đường-huyết hạ thấp dưới 3.5mmol/l là bất tỉnh hôn mê, dẫn đến mất máu não chết
người.
Quan
trọng cần nhớ:
Các
triệu chứng cảnh báo khác nhau từ người này sang người khác và có thể thay đổi
trong con người ở thời điểm khác nhau. Ví dụ, sau khi tập thể dục đường sẽ hạ
nhanh chóng.
Nó
rất phổ biến cho người bị bệnh tiểu đường để từ chối uống thêm đường hay người
chăm sóc gia đình hoặc con cái quen với những dấu hiệu biến chứng thường gặp đó
có rất ít khả năng hiểu biết thực tế của 10 bệnh này do hậu quả thiếu đường mà
vẫn kiêng sợ đường! Nhất là các bà mẹ mang bầu kiêng đường di hại 10 bệnh này
cho con và các thế hệ mai sau.
Nếu
chúng ta là người rất ít khả năng hiểu biết trong một xét nghiệm máu thì kết quả
không nhất thiết phải đáng tin cậy. Chỉ cần có những triệu chứng cảnh báo trên
cơ thể sẽ có mối nguy hiểm sắp xảy ra là hạ đường huyết, có thể không cứu kịp
tánh mạng.
Để
đề phòng an toàn tai biến do đường, chúng ta tuân theo tiêu chuẩn cũ của Y Tế
Thế Giới nãm 1979, khi đói từ 6.0-8.0mmol/l (100-140mg/dl), khi no từ
8.0-11.0mmol/l (140-200mg/dl), và khi cảm thấy hơi chóng mặt, khó thở, mệt tim
do làm việc làm tụt đường-huyết phải đo đường, nếu không đúng tiêu chuẩn phải uống
đường 2-3 thìa đường cát vàng ngay. Cần mua 1 máy đo đường, dù không có bệnh
cao đường, nhưng đề phòng bệnh thiếu đường để không bị 10 tai biến do thiếu đường
kể trên giết người một cách âm thầm lặng lẽ.
Xin
mọi người hãy tỉnh thức đừng si mê cố chấp vào kiến thức của mình, không những
tự hại mình mà còn vô minh hù dọa người khác gây ra nghiệp bệnh.
Do
đó những ai bị những chứng bệnh kể trên, biết nguyên nhân bệnh là thiếu đường
do tiêu chuẩn ngành y tự hạ xuống qúa thấp, tạo ra nhiều bệnh "để bán bệnh
cho mình mua thuốc". Mình tự phải bào vệ sức khỏe cho mình, nguyên nhân
thiếu đường thì uống thêm đường cát vàng, hay trong thức ăn cho thêm đường, và
tập thể dục khí công, các bệnh kể trên tự nhiên biến mất không cần thuốc. Thánh
nhân đã nói : Khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống. Còn Đạo Phật dạy
con người biết sống trung dung, về y học có nghĩa là không để áp huyết cao quá,
áp huyết thấp quá, không để đường cao quá, cũng không để đường huyết thấp quá
thì không bao giờ bị bệnh, còn chúng ta thì cực đoan, vừa uống thuốc làm hạ áp
huyết và hạ đường càng thấp càng tốt không chịu ngưng cứ uống thuốc suốt đời để
thành bệnh nan y khác, phải chăng là si mê ?
Nhất
là những phật tử không tin vào chân lý Phật pháp, tất cả là vô thường biến đổi
theo luật nhân quả, thì không có bệnh nào cố định phải dùng thuốc suốt đời, chỉ
có vô minh, tạo nhân xấu có hậu qu3a xấu, nhân tốt nhận được kết qủa tốt.
Vậy
kiêng đường là nhân gây ra những biến chứng hậu quả bệnh như trên là quả tốt
hay xấu, nếu nhân xấu thì do nguyên nhân kiêng đường là nhân xấu hay tốt mình tự
biết, vì không biết luật nhân quả nên còn cố chấp vào sở tri kiến là trí thức học
giả, nên khó chấp nhận thay đổi, dở hơn người phàm phu biết hậu qủa xấu, họ biết
tránh nguyên nhân xấu dễ dàng hơn những người mà kiến thức đã đầy tràn ly nước,
không thể đổ thêm nước mới vào ly của mình.