CÁCH CHỮA KHỎI CÁC BỆNH UNG
THƯ BẰNG ĐẠO HỌC
I-SỰ
SỐNG VÀ SỨC SỐNG TỰ NHIÊN CỦA CON NGƯỜI THEO ĐẠO HỌC.
Đức
Phật nói thân chúng ta là do tứ đại giả hợp mà thành, gồm có Đất, Nước, Gió, Lửa.
(Thổ đại, Thủy đại, Phong đại, Hỏa đại). Nếu 4 đại này không hòa hợp với nhau
thì chúng ta bị bệnh. Có công nhận đúng không ?
Muốn
không bị bệnh chúng ta phải làm sao cho 4 đại này làm việc đồng bộ.
Thổ
đại hay chất thổ : Là Đất có nghĩa là gì ? Là tất cả
xương cốt da thịt hình hài cấu tạo ra thân người, khi chết hỏa thiêu thì thân
này lại trở thành đất, (Chúa nói cát bụi trở về với cát bụi)
Thủy
đại hay chất thủy : Nhưng nếu
có thân thổ, nặn được xương cốt da thịt chỉ là cái tượng thôi, muốn có sự sống
cần phải có máu và nước là chất lỏng thuộc thủy đại để duy trì nuôi các tế bào
của thổ là thân người.
Phong
đại hay chất khí : Nhưng có nước và máu mà không có khí
lực tạo ra sự chuyển động, cũng chỉ là một cái thân thực vật chưa có sự sống,
giống như một người nằm đó có thân xác, có nước và máu, không có sự sống giống
như 1 xác chết, vì không thấy có hơi thở, như vậy phải cần phong đại, là gió, tạo
ra hơi thở tạo áp lực khí chuyển động đẩy máu tuần hoàn khắp nơi đưa máu vào
nuôi các tế bào trong thân thổ tập hợp của nhiều tế bào như tế bào xương cốt da
thịt...
Vậy
thì có gió (phong đại) là khí đẩy máu nước (thủy đại) nuôi tế bào ( thổ đại) là
cái thân người mới duy trì được sự sống. Nếu không có khí máu có chạy không ? Tế
bào thân thổ có được máu đến nuôi không ? Chỗ nào máu không đến nuôi thì nó đau
nhức. Đông y bắt đầu từ chỗ này mà kết luận rằng : Chỗ nào có khí chạy thì nơi
đó có máu chạy, mà chỗ nào có máu chạy đến thì thân thể chỗ đó nóng lên, chỗ
nào có máu mà không chạy thì thân thể lạnh. Vậy một người toàn thân lạnh mà vẫn
có máu, có thổ, có thủy mà không chạy thì người đó là ai ? Xác chết.
Nếu
một người chỉ biết thở là có máu chạy, có sự sống cho các tế bào thân thổ,
nhưng có tỉnh không ? Không tỉnh. Đó là
người thực vật. Như vậy từ phong đại trở xuống thủy đại, thổ đại là người thực
vật. Vì thiếu gì, thiếu Hỏa đại là điện, là thần kinh, hay gọi là có thần thức
thì mới tỉnh táo. Nếu không tỉnh thì thần bị bệnh gọi là bệnh tâm thần. Điên
cũng là bệnh tâm thần, trầm cảm cũng là bệnh tâm thần, (bệnh vong ma nhập cũng
là bệnh tâm thần). Như vậy bệnh tâm thần là bệnh của Điện là Hỏa đại, là lửa
lúc có lúc không.
Hỏa
đại hay chất điện : Một người có thần là có hỏa đại hay
điện, là gì ? Điện là các sợi thần kinh như hệ thống giao cảm thần kinh và hệ
thống vận động, (tây y gọi là hệ thống thần kinh trung ương, đông y gọi là thần
kinh âm do máu nhận cảm giác, thần kinh dương do khí tạo chức năng vận động, phản
xạ).
Điện
ở đâu trong cơ thể con người ? Là các sợi thần kinh để dẫn lửa là hệ thống thần
kinh giao cảm và vận động, là hệ thống thần kinh trung ương theo đông y là chức
năng của gan tạo ra hệ thống gân, ống máu lớn nhỏ, li ti huyết quản ở mao mạch,
và các sợi thần kinh dẫn máu thành hệ thống lưới thần kinh khắp toàn thân từ
trong tạng phủ, ra đến ngoài da đều có cảm giác.
Khí
nằm ở phổi, ở bụng, theo chức năng của tạng phủ thì có 5 loại khí : phế khí là
khí co bóp của phổi, tâm khí là khí lực co bóp của tim, thận khí là khí co bóp
của thận để làm nhiệm vụ lọc thận, gan khí là khí co bóp của gan để co bóp tiết
mật bơm máu chuyển lên tim làm nhiệm vụ
tuần hoàn, vị khí là khí co bóp của bao tử chuyển hóa thức ăn, từ thức ăn đặc
biến thành chất lỏng.
Bình
thường người ta chỉ tưởng khí là khí từ phổi, nhưng các tạng khác cũng có khí
riêng của nó là can khí, tâm khí,vị khí, phế khí, thận khí, ... đông y gọi là
ngũ tạng khí.
Vậy
thì Điện của Hỏa đại là hệ thần kinh chức năng trong hệ thống thần kinh não bộ,
các sợi dây gân, dây thần kinh do gan cung cấp thay cũ đổi mới.
Khí
phong đại thì có ngũ tạng khí, Thủy đại gồm có máu, nước, mỡ và các dịch chất do các tạng tiết ra.. Thổ đại
là tất cả các tế bào tạo thành thân người.
Con vật và cây cỏ cũng có 4 chất đất nước gió lửa hợp thành. Riêng
con người hơn con vật là có thêm một chất vô hình là Trí khôn. Gọi là chất
Quang.
Trên kinh nghiệm thực hành trong khoa chữa bệnh của cả đông y lẫn
tây y có điểm tương đồng và dị biệt.
Đông y vẫn nhìn thấy 3 yếu tố Tinh-Khí-Thần trong 5 chất :
Chất Thổ và Thủy thuộc Tinh, chất gió thuộc Khí, chất Điện và chất
Quang thuộc Thần, nên cách chữa bệnh được toàn diện.
Còn tây y chỉ nhìn thấy từng chất riêng lẻ, mà không thấy tính
liên kết của cả tổng thể, nên chỉ chữa vào cục bộ :
Thí dụ gẫy tay chân, hư hỏng nội tạng như tim, gan, ruột, tai mắt
mũi...tây y có thể cắt bỏ, thay thế chất thổ, ráp nối cái mới dễ dàng mà đông y
không làm được.
Nhưng thay ráp sửa chữa xong, muốn chất thổ này tồn tại, phải tiếp
chất thủy để nuôi dưỡng nó là nước biển và máu, đó là sức sống mới duy trì sự sống
cho tế bào.
Cũng như ghép cây chiết cành bó cây xong cũng phải nhờ bó đất tưới
nuớc bón phân thì cành ghép ấy mới sống.
Từ đây, dưới con mắt đông y chúng ta rút ra một quy luật, mà tây y
không nhìn thấy, nên gặp những bệnh nan y, tây y không chữa đúng vào gốc bệnh
theo quy luật này :
Chất nào hư hỏng thì sửa chữa nó cho nó sự sống và nuôi dưỡng nó bằng
chất cao hơn nó là cho nó sức sống.
Do đó hệ thống chữa bệnh hoàn hảo theo Đạo Học là phải lưu ý đến sự
sống và sức sống của mỗi chất :
Chất thổ bệnh chữa nó và lấy chất thủy nuôi nó.
Chất thuỷ bệnh, chữa nó và phải lấy chất khí nuôi nó.
Chất khí bệnh, chữa nó và phải lấy chất Điện nuôi nó
Chất điện bệnh, chữa nó và lấy chất Quang nuôi nó
5 chất này Y Học Bổ Sung Thực Dụng đưa ánh sáng khoa học vào phân
tích theo âm-dương khí hóa của Tinh-Khí-Thần mới thấy sự cấu tạo tế bào trong
con người thật là tinh tế kỳ diệu có hệ thống tổng thể đồng nhất, không rời rạc.
Mỗi chất đều có âm và dương, dương động, âm tịnh, nên sự chuyển
hóa, khí hóa âm dương có thuận và nghịch theo thứ tự gọi là sinh-hóa và chuyển
hóa như sau :
1-Sinh hoá-chuyển hóa thuận :
Từ chất Thổ : Có thổ âm là những thức ăn cũng từ đất (thổ) như thịt
động vật, thực vật, hoa trái...ăn vào người là thổ âm, được biến hóa thành chất
bổ là thổ dương gọi là sinh hóa trong thể động do lục phủ giúp sức,
trong thể tịnh do ngũ tạng chuyển hóa thổ dương sang chất thủy thành thủy
âm là chất lỏng là máu và dịch chất. Thủy âm lại sinh hóa thành thủy
dương nhở thể động của lục phủ, trong thể tịnh do ngũ tạng chuyển hóa thủy
dương sang chất khí thành khí âm trong máu Fe2O2 theo máu đen về tim biến thành
máu đỏ Fe2O3, rồi lục phủ lại sinh hóa khí âm thành khí dương (sức lực), lại nhờ
ngũ tạng ở thể tịnh chuyển hóa thành điện âm (nhân điện), lại nhờ lục phủ có
nguyên liệu điện âm sinh hóa thành điện dương làm mạnh hệ thần kinh tăng cường
hệ miễn nhiễm, rồi tứ thể tịnh ngũ tạng chuyển hoà điện dương thành quang âm
tăng cường tế bào não tủy, rồi trong thể tịnh ngũ tạng lại chuyển hóa quang âm
thành quang dương giúp con người càng ngày càng thông minh để học hỏi biết tất
cả những kiến thức trong thế gian gọi là thể Hạ Trí.
Khi tập thiền học đạo, thể quang dương phóng ra được khỏi đỉnh đầu
tiếp xúc thu hút được thêm chất quang trong càn khôn vũ trụ hay do tha lực vô
hình của chư Phật, của Chúa, phóng quang vào mới có đủ khả năng soi sáng khai mở
được nhiều tiềm năng còn chứa trong những tế bào não chưa đưọc sử dụng hoạt động.
2-Sinh hóa-chuyển hóa nghịch :
Khì chát thổ, chất thủy bị bệnh, mà chưa được chữa bổ sung hay
không biết chọn lựa thức ăn đúng bằng chất thổ, chất thủy từ thức ăn, hay tiếp
nước biển, hay tiếp máu..., thì một số người biết phương pháp thiền định,
yoya...biết nạp năng lượng từ trường quang năng là quang dương vào đỉnh đầu
sinh hóa thành quang âm duy trì hoạt động của tế bào não, hệ thần kinh nhận chất
cao hơn nó chuyển hóa thành điện dương, tử điện dương sinh hóa thành tĩnh điện
là điện âm, lục phủ ngũ tạng thiếu khí, nhận chất cao hơn nó chuyển hóa thành
khí dương để hoạt động đưa vào tạng phủ sinh hóa thành khí âm, chất thủy nhận
chất cao hơn nó là khí âm chuyển hóa thành thủy dương là máu và chất lỏng, nước
và dịch chất và chất điện giải duy trì lại tình trạng máu nhiễm bệnh thành máu
tốt, rồi chất thổ nhận chất cao hơn nó là thủy dương sinh hóa thành chất thổ
dương đem nuôi các chất đặc là những tế bào xương cốt da thịt bị hư hỏng.
Sự sinh-hóa chuyển hóa nghịch đó là lý thuyết khó thực hiện nếu không phải là những người am hiểu
thực hành thường xuyên theo một lý tưởng tôn giáo, các vị này ăn ít hay không
ăn mà chỉ ngồi thiền nhập định mà thân không bệnh tật.
Nếu nghiên cừu cách chữa bệnh theo chiều hướng sinh hóa-chuyển
hóa thuận, chúng ta thấy ngành y học chính thống của tây y mà cả thế giới
đang theo, còn nhiều thiếu sót, chưa thống nhất trong cách chữa được phân tích
như dưới đây
II-SO
SÁNH CÁCH CHỮA BỆNH THEO ĐẠO HỌC VÀ THEO TÂY Y.
A-CÁCH
CHỮA NHỮNG BỆNH CỦA THỔ ĐẠI :
Thô
đại là thân này đau quá, hay gẫy tay, gẫy chân, gẫy cột sống, què cụt tay chân,
mất cái đầu, nếu khoa học tiến bộ lấy đầu khác của người chết ráp vào tức là thổ
bệnh lấy thổ khác thay vào, là lấy thổ chữa thổ, giả sử vẫn được như thường, lấy
tay người khác ráp vào tay cụt của mình, tay bị tai nạn cắt cụt lấy ra ướp nước
đá, đưa vào nhà thương cũng nối lại được liền, đó là thổ bệnh lấy thổ chữa thổ,
thay thổ. Nhưng muốn nuôi tế bào nơi ráp nối để tế bào trong thổ mới được ráp lại
đó cho nó sự sống mà không bị chết, thì nó cần phải có sức sống lấy từ cấp cao
hơn nó là thủy để duy trì sự sống cho nó là truyền máu và nước biển, chứ không
phải thay nó mới là thổ thay thổ mà khỏi bệnh được.
Như
tay cũ hư, thay tay mới, đầu hư thay đầu mới, lấy đầu đàn bà thay vào đầu đàn
ông cũng được, nhưng khoa học chưa tiến bộ đến mức đó, nhưng muốn thổ mới được
tồn tại không bị hư hỏng thì phải truyền nước biển và máu là chất thủy đại cao
hơn nó 1 bậc nuôi nó. Vì thế chúng ta qua một kỳ mổ nào cũng phải truyền nước
biển và máu (như thay gan, thận, bao tử..)
Như vậy, thân này là thổ bị khô cằn, thiếu nước, thiếu máu, hậu qủa
là tế bào thổ bị biến hóa, không cần phải xét tế bào để tìm bệnh, mà chỉ cần
dùng chất thủy để bổ nó là máu và nước thì thân xác thổ hết bệnh..
Chất thổ bị nặng nhất hiện nay là ung thư, tây y sau này nếu có tiến
bộ hơn, có thể cắt bỏ tất cả các khối u, các tế bào ung thư, cắt bỏ tất cả các
tạng bị ung thư, dù có thay thế ráp nối bộ phận mới được thành công, mà vẫn giữ
nguyên quan niệm nếu bổ chất thủy là máu thì làm cho tế bào ung thư phát triển
thêm, thì ngành tây y vẫn còn thiếu sót về cách chữa bệnh thuộc thổ.
Trường đại học Johns Hopkins đứng hàng đầu thế giới nghiên cứu chữa
bệnh ung thư cũng khuyến khích bệnh nhân tập khí công, nhưng chưa nghiên cứu loại
khí công nào có kết qủa để hướng dẫn theo dõi bệnh nhân tập đến nơi đến chốn
cho có kết qủa.
Về điểm này đông y khi chữa bất cứ bệnh gì của thổ, xưa kia vẫn
cho uống thuốc thang bao gồm cả 3 yếu tô có trong thuốc là bổ thổ bằng thủy, bằng
chất khí có trong thuốc là chất thổ thấm vào chất thủy. nên khi uống thuốc
thang là chữa luôn cả 3 chất thổ, thủy, khí.
Đó là sở trường trong y học cổ truyền của đông y từ mấy ngàn năm đến
nay,
B-CÁCH
CHỮA NHỮNG BỆNH CỦA THỦY ĐẠI :
a-Sự
sống và sức sống :
Sự
sống củ tế bào thuộc thổ đại, cần sức sống là máu ( thuộc thủy đại) và đường (hỏa
đại) và oxy (phong đại).
Những
bệnh của thủy đại là máu, nước, như bệnh máu nhiễm trùng, ung thư máu, máu quá
nóng (sốt nhiệt), máu quá lạnh (sốt rét), máu dư hồng cầu, dư bạch cầu, máu thiếu
hồng cầu, thiếu bạch cầu....máu đen, thiếu oxy.
Cách
chữa là vất bỏ máu bệnh này đi, cho máu mới và nước biển vào, là lấy thủy thay
thủy ngang hàng với nó để nó có sự sống thôi, muốn nuôi và bảo vệ máu mới này
không bị bệnh phải có thêm sức sống để duy trì sự sống cho nó phải lấy thêm cấp
cao hơn nó là phong đại để chữa nó thì bệnh về máu sẽ khỏi, có nghĩa là phải có
oxy là phong đại, để giữ máu đỏ không bị biến thành máu đen.
(
Hiện nay tây y không áp dụng thay máu cho các bệnh ung thư, nhưng cách đây hơn
50 năm, một bác sĩ người Pháp ở Bệnh Viện Saint Paul khi rọi kiếng thấy toàn thể
trong ngực và bụng của bố tôi đầy máu đen, gọi tôi vào phòng rọi kiếng chỉ cho
tôi xem, rồi ông mắng tôi sao để bố mày bị bệnh nặng gần chết rồi đến bây giờ mới
đến khám. Rồi ông gọi cho các y tá trong bệnh viện chuẩn bị phòng lạnh, máu,
thuốc ngủ.
Trong
BV xưa kia không có phòng lạnh, nhưng mỗi giường sắt bệnh nhân nằm, phía trên đầu
giường có một cái thùng sắt hình chữ nhật, trong thùng để 1 cây nước đá
20kg, giường được bao trùm kín bằng
nylon dầy mầu trắng trong suốt, bố tôi nằm bên trong, ông bị chích thuốc ngủ,
bác sĩ cắm 2 ống kim tiêm vào hai bên nhượng tay, một bên rút máu đen nơi tĩnh
mạch, rút lượng máu đen trong người ra khoảng 2.5 lít thì tay bên kia truyền 3
bịch máu mới vào, bố tôi ngủ thiếp đi 48 tiếng, có cho thở oxy. Da mặt hồng hào
trở lại sau khi tỉnh dậy, người tỉnh táo khỏe mạnh, bác sĩ rọi kiếng tái khám
thấy tốt, cho ăn uống tẩm bổ theo chế độ bổ máu ăn beefsteak, củ dền hấp, trứng
gà luộc, sau 1 tuần cho xuất viện).
Như
vậy nếu không thay máu và thêm cấp cao hơn nó là khí oxy thì không thể khỏi bệnh,
tuy nhiên hiện nay dùng thuốc trụ sinh, kháng sinh là thuốc viên thuộc thổ thì
không có kết quả bằng thuốc thủy là tiêm trụ sinh, nhưng cũng chỉ là thủy ngang
hàng với thủy, nhưng biết dùng khí tăng lượng oxy cho máu thì bệnh mau khỏi.
Trong
bệnh ung thư máu, 1 tuần tiếp máu mới là máu đỏ, tuần sau mất hết máu đỏ, lại
tiếp máu, cứ tưởng như trong người có con quỷ ma cà rồng hút hết máu, cơ thể lại
mất sức, mặt xanh lè, cứ tiếp máu nhiều lần mà bệnh ung thư máu không khỏi, vì
cơ thể thiếu oxy, thuộc phong đại là cấp cao hơn nó mới duy trì bảo vệ cho máu
khỏi bị bệnh.
Công
thức máu là (Fe2O3). Máu khi bị bệnh thì mất oxy, máu đỏ (Fe2O3) trở thành máu
đen (Fe2O2) là mất hồng cầu, từ máu đen trở thành oxyde sắt (Fe2O) cũng là chất
thủy, nhưng mất thêm oxy chỉ còn chất sắt Fe2 lại là chất thổ. ..
Ngược
lại tây y không có cách chữa phong đại là giúp cơ thể tăng cường thêm oxy, thì
tây y chỉ có máy oxy cho bệnh phổi chứ không có oxy chữa các bệnh khác.
Như vậy bệnh của thủy là thiếu nước, thiếu máu, dư máu, máu nhiễm
trùng, phải thay đổi máu, thay đổi nước và dùng chất cao hơn nó là chất Khí
tăng cường oxy để thanh lọc độc cho thủy, bảo vệ chất thủy không bị hư hại, thì
tây y chưa tìm ra cách tạo khí, và không chịu theo hướng nghiên cứu chất khí
đưa vào khoa chữa bệnh bằng cách luyện thở. Trong khi các vị tu sĩ bị bệnh,
chuyên niệm Phật, tụng kinh vô tình là đang luyện khí, quên thân bệnh, tự nhiên
khòi bệnh.
Riêng về chất thủy bệnh, tây y đi theo khuynh hướng nghiên cứu vi
trùng học trong huyết học, còn đông y không biết vi trùng học, đi về kinh nghiệm
dân gian. Khi cơ thể bị sốt theo tây y là nhiễm trùng phải dùng trụ sinh là chất
thổ để chữa thủy, nếu không được thì tiếp nuóc biển pha thuốc trụ sinh kháng
sinh, thì vẫn lấy cấp thấp để chữa, chứ không dùng cấp cao hơn nó là chất khí để
chữa, vì không biết nghiên cứu tìm chất khí như thế nào để chữa, ngoài cách cho
thở bằng oxy không đúng với bệnh.
Đông y theo kinh nghiệm thì hái lá cây, lá thuốc, sắc uống mà khỏi,
tây y hỏi vi trùng gì cũng không biết, nhưng bệnh nhân khỏi bệnh, đáng lẽ tây y
biết được vi trùng của bệnh rồi thì lấy lá thuốc của đông y để chế ra thuốc
kháng sinh cho người bệnh được nhờ, thì tây y không theo con đường này.
Đông y hay hơn nữa là phòng ngừa chất thủy bệnh, đông y dùng chất
khí là dùng lá thuốc nấu cho xông hơi là chất khí để ngửi hay xông toàn thân
phòng ô nhiễm khí môi trường của những bệnh dịch lây nhiễm cũng có kết qủa.
Các
nghiên cứu về bệnh ung thư là bệnh thuộc thủy đại, lại cho rằng tại tùy bất sản
thuộc cấp thổ, cần người hiến tủy phù hợp rất hiếm, nhưng vẫn là cấp thổ đại thấp
hơn nó để chữa nó, thay thế nó, để nó có sự sống mà không có sức sống duy trì sự
sống cho nó, mà lại dùng thuốc viên là thổ đại chữa nó, do đó mà cách chữa ung
thư theo tây y đều thất bại, không có sức sống duy trì thì sự sống sẽ chết dần,
đó là lý do ung thư chữa theo tây y dù có khỏi thì cũng mất dần sự sống trong
vài năm sau. Muốn sự sống kéo dài, tế bào bệnh được phục hồi, nó cần phải được
duy trì sức sống là thay máu đỏ mới, ăn uống thức ăn bổ máu, và phải tăng cường
khí oxy là cấp cao hơn nó là phong đại để duy trì sự sống cho tế bào máu. Trường
đại học Johns Hopkins vẫn biết rằng chỉ có oxy
mới tiêu diệt được tế bào ung thư, họ đang nghiên cứu tìm phương pháp chữa ung
thư bằng oxy liệu pháp mà chưa tìm ra, nên họ chỉ khuyên các bệnh nhân nên tập
thể dục thể thao, tài chi.
Nói
cách khác, nếu theo Đạo Học cắt khối ung thư là cắt thổ vất đi là cắt bỏ khối u
bướu, nhưng lại quên không dùng thồ khác thay thế, như ung thư gan, tụy tạng,
bao tử, khi cắt đi sao không thay cái mới, như các bệnh nhân đang chờ thay thận,
thay gan, rồi trruyền máu và nước biển nuôi bộ phận thổ mới, có phải đơn giản
và thành công hơn là tìm cách chữa ung thư không ?
Bệnh
ung thư thuộc thủy, không thay thủy cho thủy mới vào và không có oxy bảo vệ máu
thì ung thư vẫn là ung thư, vì tây y cắt mổ mà không bao giờ cho thêm máu, mà cấm
không được cho máu vì nghĩ rằng thêm máu và đường sẽ làm cho tế bào ung thư
phát triển là sai với lý thuyết căn bản là các tế bào đều cần tế bào chất có đủ
protein, glucid, lipid, oxy, chính là máu, đường và oxy, đó là cách chữa tự
nhiên của Đạo Học.
Chữa
theo cách tự nhiên của Đạo Học, thì chúng ta cũng thấy hai phần là tâm bệnh và
thân bệnh gồm 4 đại là thổ, thủy, khí, điện. Chúng không hòa hợp mới gây ra bệnh,
xét theo đông y cũng cho rằng Tinh-Khí-Thần không hòa hợp thì con người là thân
thổ sẽ bị bệnh, so sánh 2 cách chữa Đạo Học và Đông y thì thủy đại bệnh là máu
thuộc Tinh, phong đại bệnh thì thuộc
Khí, hỏa đại bệnh thì thuộc Thần, theo Y Học Bổ Sung Thực Dụng, dùng máy đo áp
huyết và máy đo đường thì số áp huyết tâm thu đo được bệnh khí lực của đông y,
cũng đo được bệnh của phong đại. Số đo áp huyết tâm trương đo được bệnh của máu
thì cũng đo được bệnh cuả thủy đại. Nhịp tim của máy đo áp huyết đo nóng lạnh của
đông y cũng đo được bệnh của hỏa đại.
b-Chữa
bệnh ung thư tại sao cần đường ?
Đường
là năng lượng và nhiệt lượng phải không, mà nhiệt lượng chính là cấp cao của Hỏa
đại, cao hơn cả phong đại nên chữa được tất cả các bệnh thuộc phong đại như suyễn,
khó thở, phong thấp hàn phong thấp nhiệt làm hại thổ đại là làm cho thân thể
đau nhức. Nguyên nhân cũng do thủy đại là thiếu hay thừa máu và máu quá nóng
hay quá lạnh chứ không phải máu nhiễm trùng, cũng kiểm chứng được bằng máy đo
áp huyết về khí lực số tâm thu dư hay thiếu, số tâm trương lượng máu dư hay thiếu
nhịp tim hàn hay nhiệt. Như vậy cũng vẫn cần điều chỉnh Tinh-Khí-Thần hòa hợp
theo lý thuyết của đông y, trùng hợp với máy đo áp huyết của tây và cũng theo
phương pháp tự nhiên của Đạo Học, tất cả lý thuyết đều phù hợp hoàn chỉnh trong
việc chữa gốc bệnh toàn khoa, không phải chuyên khoa chữa cục bộ là ngọn bệnh
làm mất sự hòa hợp của tinh-khí-thần có nghĩa là đã làm xáo trộn áp huyết.
Vì
thế chữa ung thư là cần thủy thay thủy là thay máu nếu máu nhiễm trùng, thiếu
thủy là thiếu máu phải bổ sung máu bằng ăn phở, cần chất cao hơn nó là oxy tập
khí công ở bụng để chuyển khí ngũ tạng, và cần đường cho nhiệt lượng là cấp hỏa
đại duy trì khí oxy để bảo quản máu trong cách chữa bệnh ung thư do thủy đại
gây ra. là máu hư hay thiếu máu.
Đường
là cấp cao nhất trong thân người là hỏa đại, uống đường vào làm cơ thể ấm nóng,
uống đường vào hết đau nhức vì đường điều hòa chức năng thần kinh, làm thông
mao mạch là những sợi thần kinh và những ống máu li ti trao đổi máu đỏ máu đen
trong các cơ quan tạng phủ, trong não và các nơi đầu ngón tay ngón chân giao
nhau giữa kinh âm kinh dương với nhau cũng thuộc về hỏa đại, nên hỏa đại chữa
được tất cả các bệnh ở 3 cấp thấp hơn nó là phong đại, thủy đại, thổ đại.
Ngay
cả các thức ăn hay thuốc uống theo đông y cũng làm thay đổi áp huyết tốt hay xấu,
làm cho Tinh-Khí-Thần hòa hợp hay không hòa hợp mới gây ra bệnh. Do đó bất kỳ
chữa một bệnh gì cũng phải xét đến 3 yếu tố Tinh-Khi-Thần bằng cách đo áp huyết
2 tay và đường trước và sau khi ăn xem Tinh-Khi-Thần hay 4 đại hòa hợp hay
không, và cách chữa khỏi bệnh là phải lập lại quân bình khí huyết âm dương cho
tinh-khí-thần hòa hợp mà kết quả thấy được bằng con số cụ thể của máy đo áp huyết
và máy đo đường của tây y.
Như
vậy các bệnh ung thư tạo ra khối ung thư, tế bào ung thư là thổ bệnh, vì thủy bệnh
như máu hư xấu thiếu thừa bạch cầu hồng cầu, thiếu lượng máu, máu nhiễm
trùng... Nếu thay máu, bổ máu tăng lượng máu thì mới chỉ thay cấp thủy ngang
hàng với thủy, mà không tăng oxy ở cấp cao hơn thủy là phong đại để duy trì máu
đỏ, tăng hồng cầu, điều chỉnh bạch cầu. thì cũng không khỏi bệnh. Lấy chất thủy
ngang hàng với nó là ăn phở thuộc thủy cho có máu. Nhưng muốn giữ cho nhiệt độ
của máu lưu thông dễ làm thông mao mạch là những mạch máu li ti huyết quản dẫn
hồng cầu và oxy vào tận nơi các tế bào bệnh thì cần phải có đường-huyết đúng
tiêu chuẩn phải uống thêm đường, vì tế bào cần 3 chất đường, đạm, bột, cũng là
3 yếu tố tinh-khí-thần của mỗi tế bào. Còn tập khí công có 3 lợi ích vừa tăng
oxy cho ngũ tạng khí, vừa thông khí huyết toàn thân, vừa duy trì thân nhiệt làm
khối u từ chất cứng đặc hóa lỏng, mềm tan chảy những độc tố theo đường bài tiết ra ngoài.
Như
vậy chứng tỏ tất cả các bệnh ung thư là do thiếu máu thiếu đường, thiếu khí oxy
là thiếu tập khí công để thông khí huyết toàn thân và tăng cường khí cho ngũ tạng
khí.
Ung
thư là máu bị bệnh, cần phải có máu thay thế, và phải có khí, có điện mới chữa
đúng, còn tây y cắt mổ thì sai, hóa trị là dùng chất thổ cũng sai, xạ trị là cấp
điện và quang thì đúng nhưng chưa hoàn chỉnh về cường độ nhẹ cho phù hợp, chỉ
dùng cường độ mạnh để phá hủy tế bào chứ không phải phục hồi nuôi sống lại tế
bào, trong khi tế bào cần máu mới, và chất quang phải làm sao giúp đưa oxy vào
phục hồi lại sự sống cho tế bào ở vùng bị bệnh.
Muốn
chữa được bệnh ung thư cần phải có oxy liệu pháp. Tây y không có môn học tạo
oxy, mà tây y cũng công nhận và ao ước phương pháp oxy liệu pháp mà tây y chưa
tìm ra được, nên cách chữa ung thư hiện nay của tây vẫn thất bại, tây y chỉ
khuyên bệnh nhân đi tập Tai Chi, nhưng Tai Chi không phải là khí công oxy liệu
pháp. Khí công phải là cách nạp khí trong bụng làm sao cho ngũ tạng khí phải
chuyển động co bóp trao đổi oxy đồng bộ để đưa được máu dẫn oxy đến nuôi các tế
bào, như vậy tế bào vẫn cần máu và oxy thì có nghĩa là phải có máu đỏ
Fe2O3..
Tại
sao nói khí công chữa được bệnh về máu, thí dụ một người dư nhiều chất sắt
trong máu, có nghĩa là trong máu vừa có máu đỏ, máu đen, oxyde sắt và chất sắt
thừa Fe2.
Thí
dụ như cơ thể có số lượng máu là thủy, nFe2O3 + nFe2O2 + nFe2O và 5 đơn vị sắt
+ 5Fe2 sẽ gây ra ung thư gan, vì chất sắt Fe2 là kim loại ở cấp thổ chứ không
còn là máu đỏ ở cấp thủy, còn theo lý thuyết ngũ hành của đông y, chất sắt ngũ
hành thuộc kim là mầm gây bệnh do dư thừa sẽ hại gan, trong gan chứa máu lại chứa
thừa chất sắt, mà ngũ hành của gan thuộc mộc, ngũ hành của chất sắt là kim, kim
khắc diệt mộc ngay trong tạng mộc gây ra ung thư gan, trùng hợp với nghiên cứu
của tây y cũng cho thấy kết quả thừa chất sắt là nguyên nhân gây ra bệnh ung
thư gan.
Nhưng
theo cách chữa tự nhiên bằng Đạo Học, dư chất sắt là từ máu đỏ là chất lỏng mất
khí oxy, thì chỉ cần tăng thêm oxy từ cấp cao hơn nó là phong đại, bằng cách tập
khí công thông khí toàn thân chuyển khí từ bụng vào ngũ tạng khí là gan khí được
bổ sung oxy, thì chất sắt lại kết hợp với oxy trở thành máu tốt là máu đỏ.
Vẫn
theo quy luật tự nhiên của Đạo Học, chất nào bệnh thì cần thay thế chất đó, và
duy trì sự sống cho nó có sức sống, cần lấy chất cao hơn nó, nhưng chất cao hơn
nó cũng thiếu, cũng bệnh thì lại dùng cấp cao hơn nữa.
Điều
này cũng chứng tò khi thủy đại bệnh là bệnh của máu gây ra ung thư thì tế bào
ung thư phải cần oxy để phục hồi lại máu xấu gây ra ung thư trở thành máu đỏ tốt
thì khỏi bệnh.
Oxy
liệu pháp theo phương pháp tự nhiên của Đạo Học là tập khí công ở bụng chứ
không phải ống chụp oxy cho phổi thở ở mũi hay tập Tai
Chi không thông được khí toàn thân và tăng khí cho lục phủ ngũ tạng được.
Ngày
nay ít có ai biết ung thư phổi được hình thành từ nấm mốc trong phổi, do cảm lạnh
lâu năm bởi thời tiết nóng lạnh bất thường ở xứ bắc Mỹ, ban ngày nhiệt độ dương
nóng ban đêm nhiệt độ âm lạnh, sương mù, mưa gió, không khí ẩm thấp vào phổi
qua hơi thở, dần dần ho, khó thở, hụt hơi, ho cảm lâu ngày không khỏi, cảm thấy
lượng oxy trong phổi ít đi, xoang phổi không co bóp tốt, tiếng nói cũng bị hụt
hơi ngắt quãng giống như bệnh suyễn, tây y chữa thành bệnh suyễn một hai năm
không khỏi suyễn, không hết ho, thì nấm mốc loang dần to dần thành khối u cứng
tây y gọi là cancer fungus.
Nên
cách chữa bằng Đạo Học thì tây y chưa phát triển đến mức này, mà thật ra trong
đời sống hàng ngày lại đang vô tình áp dụng phương pháp tự nhiên này của Đạo Học
:
Thí
dụ trên nền nhà bẩn do không khí ẩm thấp tạo ra nấm mốc có mùi hôi mốc con người
không thể ở được. Nếu do sở tri kiến chấp theo kinh nghiệm chuyên môn của ngành
y hay ngành hóa chất, thì người ta phải lấy mẫu nấm để thử xem loại nấm mốc gì
thí dụ loại nấm mốc tên A+, thì phải điều chế thuốc chống nấm mốc A+ là A- mà
chưa tìm ra bó tay, thì người thợ sửa nhà chỉ cần xịt nước để rửa khắp nền nhà
và trên tường cho nấm mốc trôi hết, rửa là dùng thủy, rồi dùng máy thổi hơi là
khí đuổi sạch hơi mùi mốc, rồi bảo quản lại căn nhà không cho nấm mốc có điều
kiện phát triển bằng cách thồi hơi nóng khắp nhà là diệt tận gốc mầm nấm mốc là
nhà hết hôi mùi nấm mốc trong thời gian phục hồi lại căn nhà trở nên sạch sẽ
như xưa, nếu phân tích, họ dùng thủy chữa thổ là nấm mốc, dùng khí đẩy mốc,
dùng hỏa diệt mầm mốc, trong khi đó nhà hóa học suy nghĩ cho là hoang đường vì
trong đầu không thể tưởng tượng họ phải dùng thuốc nào, bào chế hóa chất gì,
bào chế ra sao để tạo ra thuốc A- để diệt mốc, làm sao mà tco1 thể chế ra thuốc
A- diệt nấm mốc được, nghĩ thật hoang đường, không thể nào, mà thực tế người thợ
sửa nhà không phải bác sĩ, cũng không phải là nhà hóa chất đã chữa khỏi nấm mốc
cho căn nhà này bằng kinh nghiệm. Còn các nhà khoa học, bác sĩ vì họ chấp vào sở
tri kiến trong lãnh vực hiểu biết của họ, mà không không chấp nhận thực tế bằng
các phương pháp ngoài tầm hiểu biết của họ, nên thường hay kết luận bằng những
câu nói như vớ vẩn, hoang đường.
Trong
bệnh nấm mốc trong phổi cũng được chữa tương tự, dùng 1/4 hay 1/2 thìa cà phê
Baking Soda pha với nước ấm uống 1 ngày 1 lần, là chất kềm độ pH 10, trung hòa
acid có đô pH thấp dưới 7, theo tây y là nguyên nhân gây ra ung thư, nhưng đó
là chất rửa nấm mốc thuộc thủy đại, còn thuốc tây y dưới tên Alka-Zeltzer chữa
ho cảm lạnh, nhưng phải chữa thêm bằng phong đại và hòa đại, tối đặt tấm sưởi
điện sau lưng nơi vùng phổi làm ấm nóng phổi suốt đêm, và tập bài Kéo Ép Gối,
là khí thuộc phong đại, uống đường làm dịu thần kinh, trong 1 tuần sẽ thấy dứt
ho, dễ thở, chụp phổi hết nám hết nấm mốc trong phổi.
Cho
nên có nhiều bệnh nhân tự chữa bệnh theo hướng dẫn của môn Y Học Bổ Sung Thực Dụng,
khi đi tái khám bác sĩ công nhận qua kết quả xét nghiệm, họ hỏi bệnh nhân chữa
làm sao được khỏi bệnh, bệnh nhân trả lời chữa theo khí công y đạo, bác sĩ bó
tay mà họ vẫn nghĩ theo sở tri kiến chấp của họ, cho rằng hoang đường hay cho
là may mắn khỏi bệnh, thì cũng có những bác sĩ khác, tâm cởi mở hơn chấp nhận
tây y không chữa được thì có những phương pháp khác chữa khỏi mà mình chưa biết
là chuyện thường, còn các bác sĩ cố chấp vào tài của mình thì thốt ra những câu
phê phán là tào lao, hoang đường. may mắn, không tin, vớ vẩn... đó là những
thói xấu của con người thiếu chịu học hỏi .
C-CÁCH
CHỮA NHỮNG BỆNH CỦA PHONG ĐẠI :
Bệnh
của khí là bệnh của hơi thở, là suyễn, có hai loại suyễn :
Suyễn
ngước cổ lên thở là chỉ hít vào nhiều, ngắn hơi, không chú ý hơi thở ra. Suyễn
cúi mặt xuống thở, chỉ thở ra nhiều và ngắn hơi, không chú ý đến hít vào.(giống
như chó thở). Đông y định nghĩa suyễn là hơi thở bất bình thường không đều. Tại
sao như vậy ? Vì thần không vững, thần hốt hoảng, Vậy ai là người chữa bệnh suyễn
được. Tây y không chữa được bệnh suyễn, chỉ dùng thuốc xịt vào lưỡi cầm chừng từng
cơn. (cũng là cấp khí chữa khí),
Bệnh
đau nhức thuộc về khí với điện, mà điện không có là do các dây thần kinh không
đủ máu để dẫn truyền điện lên hệ thần kinh. Đông y nói chỗ nào có máu chạy thì
chỗ đó nóng, mà người không nóng là thiếu máu và thiếu đường, thiếu khí, thì phải
dùng cấp khí với cấp diện chứ, còn uống thuốc viên lại là cấp thổ không chữa được
nó, là tây y chữa sai rồi. Phương pháp nào chữa được. Đó là châm cứu là chỉnh lại
hệ thần kinh là cấp Hỏa đại. Day kim vào tự nhiên chỗ đó nóng lên và khí nó chạy
thì hết đau, nên châm cứu hết bệnh suyễn nhanh.
Suyễn
mà càng dùng thuốc xịt vào lưỡi nhiều thì bị ung thư lưỡi, hay làm lưỡi mất vị
giác, mất cảm giác ăn ngon, thức ăn ngon vào miệng chỉ giống như đang nuốt cát,
không có mùi vị gì cả. Thì bao tử không nhận được các vị mặn, ngọt, chua, cay,
đắng, nên bao tử không làm việc, gây ra chán ăn, đầy bụng, thức ăn thối trong
bao tử trở thành thùng rác, làm sao nó nuôi được các tế bào theo vị khí của thức
ăn. Hệ thần kinh phải phân biệt được từng vị khí thì thần kinh mới chuyển khí để
chuyển hóa thức ăn thành máu rồi theo vị khí dẫn đến nuôi các tế bào chức năng
tạng phủ được. Nó phải phân biệt nhận được vị ngọt nuôi tỳ-vị, vị đắng nuôi
tim, vị chua nuôi gan, vị cay nuôi phổi, vị mặn nuôi thận....thì chức năng 5 tạng
mới làm việc, như vậy thuốc xịt lưỡi lâu ngày làm liệt thần kinh vị giác thì dù có ăn cơm ngon cũng không trở thành chất
bổ.
Những
bệnh của phong đại là suyễn, khó thở, phong thấp đau nhức do hàn nhiệt thay đổi
gây ra bởi thời tiết môi trường.
Trong
châm cứu thật ra cũng rất hay nhưng các thầy châm cứu không biết đến cách chữa
tự nhiên bằng Đạo Học, vì châm cứu là châm vào các điểm hội tụ các dây thần
kinh, tạo ra điện, thuộc cấp Hỏa đại để chuyển khí ngũ tạng, chữa được bệnh khí
là suyễn, chữa được phong hàn nhiệt gây ra bệnh thân thổ bị đau nhức, nên châm
cứu là điều hòa hệ thống thần kinh giao cảm dể giảm đau và thần kinh vận động để
phục hồi lại chức năng vận động bị tê liệt. Trên lý thuyết là vậy, nhưng tại
sao châm cứu thất bại ?
Vì
muốn dẫn điện cần phải có máu dẫn truyền thần kinh, mà cơ thể thiếu máu thì các
dây thần kinh không dẫn điện được, vì không để ý đến dinh dưỡng cho cơ thể bổ
máu bằng ăn uống là phở thuộc TINH, điều chỉnh thần kinh tác động vào ngũ tạng
khí, mà khí ngũ tạng cũng yếu nên châm cứu cũng thất bại vỉ cơ thể thiếu KHÍ, 2
yếu tố này nhờ khoa học chế ra máy đo áp huyết mà biết được số tâm thu bên gan
đo tay phải thấp thuộc Khí, thì cần phải tập khí công ở bụng để nạp khí cho ngũ
tạng khí, số tâm trương bên tay phải thấp là không đủ chất thủy chứa trong gan,
cần phải bổ sung bằng thức ăn bổ máu là ăn phở, còn giúp cho các dây thàn kinh
hoạt động tốt không bị tắc mao mạch thì cần đường là cung cấp hỏa đại thì châm
cứu dùng hỏa đại để chỉnh nhiệt, điện, năng lượng giúp cho các cấp thấp khỏi bệnh
dễ dàng..
Nhớ
rằng sô tâm trương cao hơn tiêu chuẩn, dù gọi là huyết lực, nhưng trong chất lỏng
đo được này là thủy đại có chứa máu, nước, mỡ..., cần phải tập khí công cho xuất
mồ hôi mất nước cho đến khi không ra mồ hôi và mỡ nữa thì lúc đó đo lại áp huyết
tâm trương xuống thấp hơn tiêu chuẩn là
lượng máu thực trong cơ thể bị thiếu. Nhưng người thiếu máu, gầy ốm cơ thể thiếu
nước và thiếu mỡ thì số tâm trương thấp dưới 65, thì họ dù có tập khí công cho
đến khi mệt cũng không có thể ra mồ hôi, vì cơ thể không có đủ nước, còn nếu ra
mồ hôi thì sẽ bị ngất xỉu vì chính ra mồ hôi là mất máu, và mất đường, nên có
người nói dù tôi tập khí công nhiều cũng không bao giờ ra mồ hôi, còn bị mệt rồi
té xỉu là bị tụt mất đường huyết.
Tiếc
thay các thầy châm cứu chỉ giỏi châm cứu đúng huyệt xong, và cho thuốc là chất
thổ là những loại thuốc viên chữa phong thấp đau nhức kém hiệu nghiệm hơn là
thuốc thủy là thuốc sắc cần phải nấu với nước, nhưng vẫn không biết áp dụng
cách kiểm chứng kết quả bằng máy đo áp huyết xem mình chữa đúng hay sai.
Nếu
xét theo tinh-khí-thần là khí-máu-đường, đo bằng máy đo áp huyết thì suyễn thuộc
bệnh của khí dư thừa là suyễn thực chứng, hay thiếu khí là suyễn hư chứng, sẽ
có số tâm thu quá cao hay quá thấp, châm cứu thuộc hỏa đại là thần kinh mà cơ
thể thiếu máu, số tâm trương bên tay phải thuộc gan thấp, thì dây thân kinh thiếu
máu sẽ không dẫn điện để tác động lên huyệt thì châm cứu không kết quả, kim
châm vào da thịt như châm vào thân cây mục.
Ngược
lại, còn nếu có kết quả thì kết quả tối đa chữa bệnh này chỉ chiếm 15% trong việc
điều chỉnh khí thôi, còn 30% thuộc thần, 40% thuộc Tinh là thức ăn thuốc uống bổ
máu, và 15% tập khí công thông khí lưu thông toàn thân.
Ngành
châm cứu hiện nay tuy có cải thiện kỹ thuật châm bằng điện, ở cấp điện thuộc hỏa
đại chữa được bệnh suyễn, còn tây y chữa suyễn vẫn bằng khí ngang hàng với nó
là vừa cho thuốc nước xịt vào họng, vừa tiếp oxy qua mũi, cũng là chất khí
ngang cấp với phong đại thì bệnh không khỏi dẫn đến ngộp thở chết người, vì
không biết cách sử dụng châm cứu tác động điều chỉnh hệ thân kinh như châm cứu
là cấp điện hỏa đại cao hơn cấp phong đại.
Còn
châm cứu thất bại đối với những người có hệ thân kinh suy nhược gầy ốm trong
người không đủ máu nuôi thần kinh giống như hệ thống điện không có, thì châm cứu
mất tác dụng, nên cần phải điều chỉnh ăn uống cho cơ thể đủ máu trước thì châm
cứu mới có kết quả.
Như vậy bệnh của khí là cơ thể rối loạn khí không điều hòa đều
thân nhiệt, thiếu khí giúp máu tuần hoàn toàn thân, chỗ thì dư khí phong, chỗ
thì bị khí thấp nhiệt, chỗ thì bị khí thấp hàn gây ra đau nhức, thiếu khí hụt
hơi làm thành bệnh suyễn...tây y chỉ dùng thuốc giảm đau, an thần, thuôc ngủ,
thuốc làm tăng áp huyết là chất thuốc viên thuộc chất thổ, thuốc chích thuộc thủy,
là chất thấp hơn nó để chữa nó thì không bao giờ khỏi bệnh. Những bệnh này tây
y khuyên đi châm cứu bấm huyệt thì khỏi, tại sao lạ vậy ?
Vi châm cứu bấm huyệt là chỉnh khí, và cấp cao hơn nó là dùng điện
bằng kim châm cứu kich thích hệ thần kinh thuộc chất điện, hay châm cứu chạy điện
thì kết qủa hay hơn tây y, đông y có dùng chất lửa, chất nóng, chất điện như hơ
cứu, hơ bằng máy sấy tóc, chườm nóng....là chất cao hơn chất khí.
Thay vì tây y cũng phải chấp nhận môn học này đào tạo ra bác sĩ
sát nhập vào y học chánh thống thì lại chèn ép đố kỵ, nên ngành châm cứu không
được xem trọng để được làm việc chung trong 1 bệnh viện.
Tây y khi thấy bệnh nặng nguy hiểm đến tánh mạng thì dùng phẫu thuật
cắt bỏ thay thế thổ là chữa vào cấp dưới là chất thổ và chất thủy. Không biết
nghiên cứu chất khí để chữa bệnh nên bó tay, chỉ có 1 chiêu duy nhất mà tây y
có là bệnh khí là suyễn, tây y có cho thở oxy là chất khí, mà không dùng chất
cao hơn nó là điện, chỉnh thần kinh chức năng phế-vị để điều chỉnh hơi thở làm
mất hết bệnh suyễn thì tây y không nghiên cứu, chỉ dùng chất thủy là cách dùng
thuốc xịt vào lưỡi nên gây ra biến chứng là bệnh ung thư..
Trong môn học khí công có tập luyện thở, tập động công, tĩnh công,
giúp tuần hoàn khí huyết toàn thân, giúp chức năng tạng phủ co bóp tăng sinh
hóa chuyển hóa của lục phủ ngũ tạng chuyển thức ăn thành chất thủy, chất khí,
chất điện.... làm thay đổi áp huyết, diều khiển được tăng giảm khí lực, tăng giảm
huyết lực, tăng giàm được hàn nhiệt, là điều chỉnh được cả Tinh-Khí-Thần, có
nghĩa là điều chỉnh được Tinh là chất thổ và chất thủy, điều chỉnh được chất
khí tăng giảm, điều chỉnh được thần là chất điện.
Những bài tập Khí công chữa bệnh :
Bài Nằm Đá Gót Chân Vào Mông, bài Nạp Khí Trung Tiêu, bài Đứng Hát
Keo Gối Lên Ngực, Kéo Ép Gối Thổi Hơi Ra Làm Mềm Bụng, bài Vỗ Tay 4 Nhịp, là
bài thông khí toàn thân, giúp tiêu hóa, chuyển hóa hấp thụ thức ăn thành chất bồ
máu, làm tăng thân nhiệt, tăng áp huyết, hạ đường huyết.
Bài Bó Bắp Chân Đi Cầu Thang 1 Bậc làm hạ đường, làm hạ áp huyết,
bài thở thận, thở Mệnh Môn ổn định áp huyết và thân nhiệt, bài thờ 2 Đan Điền
tăng nhiệt, tăng hồng cầu, tăng áp huyết hay hạ nhiệt, bài thở bụng chữa suyễn,
hạ áp huyết, những bài luyện thở bằng niệm danh hiệu A Di Đà Phật hay A Lê Lui
A, bài Cúi Lạy thông khí huyết, thông mao mạch chữa tiểu đường, áp huyết và ung
thư.....
Thực hành các bài tập thở bụng như nằm ngửa, người chữa ép 2 bàn
tay ấn đè vào bụng bệnh nhân theo hơi thở ra để khí trong bụng chuyển động chữa
đau bụng, sôi bụng, ăn không tiêu.
Học viên thực tập khí công bài Nạp Khí Trung Tiêu tạo khí trong bụng
chuyển hóa thức ăn, tăng nhiệt và tăng áp huyết thì hai bàn tay chồng lên Đan
Điền Thần, ngược lại muốn hạ nhiệt, hạ áp huyết thì hai tay đặt chồng lên Đan
Điền Tinh Khí Hải.
Nam đặt bàn tay trái vào Đan Diền Thần, tay phải chồng lên trên, nữ
làm ngược lại.
Đan Điền Tinh : Nam đặt bàn tay phải lên huyệt Khí Hải dưới rốn 3
lóng tay, bàn tay trái đặt chồng lên tay phải. Nữ đặt ngược lại.
Những bài này làm thay đổi chất khí dùng trong chữa bệnh, chứ
không phải là yoga, dưỡng sinh, vì những người tập những môn này vẫn còn bị bệnh,
còn ai tập khí công chữa bệnh kể trên thì thân bệnh được chữa khỏi.
Thở
đan điền thần làm tăng áp huyết, thân nhiệt
http://www.youtube.com/watch?v=PQshiUzamdI
http://www.youtube.com/watch?v=qG1IxJUg0bw
Thở
đan điền tinh , làm hạ áp huyết, giảm thân thiệt:
http://www.youtube.com/watch?v=zRFarYotvc0
Thở
mệnh môn làm ổn định áp huyết:
http://www.youtube.com/watch?v=qG1IxJUg0bw
D-CÁCH
CHỮA NHỮNG BỆNH CỦA HỎA ĐẠI :
Hỏa
đại là thần kinh, là điện, là nhiệt, nên những bệnh thuộc hỏa đại là bệnh thần
kinh chia 2 loại :
Loại
thừa điện là điên khùng, háo động, phá phách, đo áp huyết cao, người nhiệt. Loại
thiếu diện là trầm cảm, thiếu máu, thiếu đường đo áp huyết thấp.
Tây
y không chữa được bệnh này vì chỉ cho thuốc thuộc thổ là cấp thấp, nên phải uống
thuốc đến suốt đời cho đến chết mà bệnh không khỏi.
Còn
châm cứu là ngang hàng hỏa đại, cắt hỏa hạ áp huyết, làm êm dịu thần kinh có kết
quả với những bệnh thực chứng, còn hư chứng do thiếu khí, thiếu máu, thiếu đường
thì châm cứu không tác dụng. Nhưng vẫn thiếu cấp cao hơn nó để cho nó khỏi bệnh
hoàn toàn, cấp cao hơn nó chính là cấp quang, nghĩa là ánh sáng trí tuệ, hiểu
biết, thì tây y có bác sĩ tâm lý thần kinh nhưng không biết nguồn gốc bệnh, nên
những lời khuyên khai tâm trí cho bệnh nhân không kết quả lại dùng thuốc thổ chữa
bệnh tâm thần nên bệnh nhân cũng phải dùng liều thuốc tâm thần càng ngày càng
tăng cho đến chết và trong thời gian sống trở thành người vô dụng.
Nhưng
những bệnh nhân này tự nhiên được chữa khỏi nhờ vào tôn giáo, tín ngưỡng, tin
tưởng vào Chúa, hay được hiểu nguyên nhân gây bệnh là nhân quả và nghiệp lực xấu
tốt trong giáo lý Phật giáo, khiến họ hiểu ra chấp nhận và sửa đổi, thay đổi
tâm của mình thì khỏi bệnh.
Như vậy bệnh của hỏa đại do dư lửa hay thiếu lửa, thì tây y hoàn
toàn thất bại, chất điện gây ra bệnh tâm thần, điên, hiếu động, stress, trầm cảm,
ma nhập....chỉ cho uống thuốc an thần là chất thổ thì xem như bệnh chưa bao giờ
được chữa nên bệnh càng nặng thêm.
Bênh này cần chất quang là chất thuộc về trí hiểu biết nguyên nhân
tâm lý, tây y có bác sĩ tâm lý thần kinh, chú trọng vào khai tâm mở trí cho bệnh
nhân thì ít mà cho thuốc chất thổ làm an thần thì nhiều nên cũng thất bại.
Nhưng những bệnh nhân này khi đến với tôn giáo, hiểu đạo pháp, được
các nhà tu khuyên bảo, tâm trí được khai mở sáng suốt, tập thở thiền thư giãn,
luyện khí, một thời gian tự nhiên hết bệnh, tây y cũng khônghiểu tại sao và
không nghiên cứu về lãnh vực này nên cách chữa bệnh vẫn dùng thuốc là chất thổ,
chất thủy.
Tây y cũng có chất quang dùng để khám bệnh và chữa bệnh chưa được
hệ thống hóa cho hoàn chỉnh, theo quy luật Chất nào hư hỏng thì sửa chữa
nó và nuôi dưỡng nó bằng chất cao hơn nó.
Hiện nay chữa mắt biết dùng tia laser, một vài bệnh chữa bằng tia
laser, nhưng chưa được an toàn, mà phim khoa học giả tưởng Star Strek đã đưa ra
lý thuyết bằng hình ảnh để khuyến khích con người tìm hiểu thêm để biến những
giả tưởng thành sự thật.
Như họ dùng dụng cụ gọi là Squip là dụng cụ Laser, rà trên người
tìm chỗ đau bệnh, họ không cắt mổ, không dùng thuốc thổ, thủy, họ lại dùng một
máy Squip laser khác chiếu vào chỗ đau là bệnh khỏi, nên các nhà phi hành gia
trên con thuyền không gian không bao giờ bị thân bệnh.
Họ cũng có những máy quang học làm tan biến tế bào con người vào
không gian không còn nhìn thấy thân người để rồi tập hợp lại thành thân người ở
một nơi khác, thì nó cũng là sự thực khi các vị tu chứng qủa A La Hán có thần
thông cũng biến hóa thân từ nơi này đến nơi khác, nên thân không bao giờ có bệnh,
vì chất quang là chất cao nhất sẽ chữa được mọi chất ở cấp thấp.
E-CẤP
QUANG LÀ GÌ, Ở ĐÂU ?
Những
tu sĩ, hay các nhà bác học sở hữu cấp quang nhiều hơn người bình thường.
Cấp
quang này nằm ở đâu ? Là những kiến thức, những điều học hỏi trong quá trình tiến
hóa của linh hồn qua nhiều kiếp nằm sâu trong bộ nhớ ở não, trong khi bộ não chỉ
ghi nhớ những kiến thức kinh nghiện được học hỏi từng trải trong kiếp hiện tại,
đem ra sử dụng khoảng 7%, còn nhà bác học sử dụng khoảng 10%, còn 90% trong tiềm
thức ẩn sâu trong bộ nhớ chưa khai thác được, chỉ khai thác được bằng tập thiền
mới tìm ra được số code mật mã để mở ra những phần còn lại. Nhưng thời gian
không còn đối với con người ngày một già yếu, khí huyết không đầy đủ, kém minh
mẫn, bộ não chết dần, lại bị xóa bỏ đi mọi trí nhớ, mọi kiến thức kinh nghiệm
đã học.
Còn
đối với các vị tăng đi hóa duyên, dãi nắng dầm mưa lại khỏe mạnh ít bệnh tật,
mà không cần máu, không cần đường, không cần khí, không cần tập khí công mà tại
sao các thầy khỏe, vì cách chữa cao cấp nhất là cấp quang.
Đường
cho năng lương thuộc cấp diện nuôi khí, uống đường hết suyễn, máu đang lạnh uống
đường xong máu nóng ấm tay lạnh thành ấm nóng, đang đau nhức thổ uống đường
xong hết đau, nhưng cấp cao nhất là quang từ trên có thể chữa được các bệnh thuộc
thân bệnh trong tứ đại này. Còn từ quang trở lên để chữa tâm bệnh, nếu không
sáng suốt, không giác ngộ, không hiểu biết để khai thị cho mọi người thế gian
biết bệnh là do con người gây ra theo luật nhân quả thì phải chịu nhân quả xấu.
Thí dụ nhân là thiếu máu thiếu khí thiếu đường gây ra bệnh, phải trực chỉ minh
tâm kiến tánh thành Phật là giác ngộ hiểu biết nguyên nhân thiếu gì thì chữa thẳng
vào nguyên nhân ấy là bổ máu, uống đường tập khí công.
Vạn
pháp do tâm sanh, vạn pháp do tâm diệt, hiểu được nghĩa lý này thì tâm không bệnh
thì thân cũng không bệnh.
Đời
nhà Trần, quân Nguyên Mông sang đánh nước ta, đã qua biên giới đến gần Thăng
Long rồi, nếu thần không vững, thần của nước ta lúc đó là ai ? Là thái sư Trần Thủ Độ thần rất vững, đã nói
câu : Đầu thần chưa rơi xuống đất, bệ hạ đừng lo. Nhờ câu nói này vua không chạy,
còn nếu Trần Thủ Độ thần không vững mà hốt hoảng nói bệ hạ chạy đi, chạy đi,
thì vua chạy, thì cả nước chạy thành loạn là chết, mất nước. Nhờ thần của Trần
Thủ Độ vững, mới có Hội Nghị Diên Hồng đánh thắng được giặc thù phương Bắc.
Vì
thế chỉ có Đạo Phật mới làm cho tâm an thôi, vì hiểu nghiệp xấu do nhân xấu, phải
cải nghiệp, ăn năn, sám hối, là cấp quang, cứ niệm Phật là khí thuộc phong đại,
niệm Phật cũng nhận được ánh sánh là quang của Phật chiếu soi vào, nên mình chấp
nhận thân bệnh là nghiệp bệnh, buông bỏ, cứ bao giờ chết thì chết, không sợ cái
chết thì tâm bình thế giới bình, vạn pháp do tâm diệt, tâm làm vạn bệnh đều
tiêu, còn trong khí công có câu : tâm-tức điều hòa tiêu vạn bệnh, tâm-tức
có nghĩa là để tâm trí vào từng hơi thở cho điều hòa thì khỏi mọi bệnh là đẳng
cấp cao nhất khi tập thở khí công, thì khí công chữa được các bệnh cấp thấp, mà
khí dư thừa làm ấm nóng người là tích lũy thêm cho cấp điện, da mặt hồng hào,
tích lũy được nhiều cho cấp điện phát ra từ trường, ra nhiệt, ra quang ánh sáng
như theo hệ thống tạo điện bằng thác nước gọi là thủy điện, có chât thổ là guồng
máy, dây dẫn điện, có nước là thủy, ở độ thật cao tạo khí lực làm xoay guồng
máy dẫn thành điện trong những ống dây điện tạo ra công suất phát nhiệt, để
dùng cho máy sưởi, phát quang dùng cho các bóng đèn...cũng là theo nguyên tắc tự
nhiên của Đạo Học áp dụng ngoài đời cho thế gian, còn áp dụng cho cơ thể để chữa
bệnh thì ít ai biết.
Mình
thiếu quang là thiếu sự sáng suốt, nên mới nói, thôi tôi không theo Đạo Học
đâu, tôi bệnh phải đi tìm bác sĩ chữa bệnh, là do tâm như thế mới sanh bệnh đẻ
ra bệnh do tâm lăng xăng, bất an, nên vạn bệnh do tâm sanh ra, phải dừng ngay
tâm lăng xăng, cố chấp, đố kỵ lại. Nghiệp có thể tự cải nghiệp sẽ không chết vì
nghiệp do ngu xuẩn vô minh. Không phải chúng ta chết do bệnh ung thư, bệnh ung
thư là bệnh nghiệp phải cải nghiệp, nghiệp gây ra là thiếu máu thiếu khí thiếu
đường, lười tập khí công, cải nghiệp là bổ khí, bổ máu, bổ đường, tập khí công
thì chúng ta lại né tránh là chúng ta không muốn cải nghiệp mà lại gây thêm chết
chóc cho các tế bào tự hủy diệt thân xác mình cho dến chết.
Bệnh
của diện là gì ? Là điên, là khùng hay quậy phá, hoặc trầm cảm mất thần, tất cả
bệnh điên tây y xếp vào loại bệnh tâm thần do bộ não hư, suy nghĩ vớ vẩn, cái
gì cũng sợ, cũng lo mới thành điên. Có bệnh nhân nói trong miếng thịt này có
ma, tôi không ăn đâu...
Chỉ
có đưa những bệnh nhân tâm thần đến với Đạo Phật, các thầy các sư cô giảng về
nghiệp, khi hiểu rõ nhân quả thì tâm mình an, tự nhiên mình khỏe, thảnh thơi hết
lo sợ, buông bỏ được tất cả những ưu tư phiền não của mình thì hết bệnh.
Vì
thế cấp quang chữa được hết tất cả mọi bệnh khi biết rõ nguyên nhân hậu quả.
Các
tu sĩ đời Phật còn tại thế, chỉ đi du hóa thôi, có ăn thức ăn bổ đâu, nhưng trí
óc các ngài rất sáng suốt, các ngài nhận được quang là sự giác ngộ hiểu biết của
Phật, như Phật thì nhận năng lượng trực tiếp của thiên nhiên trong vũ trụ trời
đất vào đỉnh đầu.
Đường
là năng lượng cao nhất về vật chất, còn quang là năng lượng về tinh thần có 2
phần, phần làm cho thân khỏe mạnh, phần làm cho hồn vía mạnh, có hào quang bao
xung quanh thân người, vì thế chỉ có chữa theo tự nhiên của Đạo Học sẽ hết bệnh
là tu đúng, chứ không phải tu sai thì không khỏi bệnh.
Quang
chữa được tất cả thân bệnh, cũng nhờ quang là giác ngộ tự nhiên thông minh ra,
từ cấp quang mà tu cao hơn nữa theo đạo Phật gọi là bậc A La Hán (bậc thánh).
Sở
dĩ tôi giảng các bài này không phải có sẵn trên internet, không phải kiến thức
của thế gian được giảng dạy trong các trường đại học, mà là kiến thức bên ngoài
không gian ở các cõi thế giới khác, người đời gọi nôm na là ở cõi trên. Có
nghĩa là hồi a tăng kỳ kiếp, có những kiếp mình là nhà bác học, bộ nhớ của mình
để ngoài không gian, bây giờ mình là thằng nhỏ lớn lên, khi học đến kiến thức của
thế gian ở bậc đại học, lúc đó tự nhiên trí não phát triển nhớ lại trong tiềm
thức, trong giấc mơ có những kiến thức cao hơn bậc đại học, còn như mình lười học
thì không đủ khả năng tiếp cận, có nghĩa là nếu mọi kiến thức mình học trong thế
gian hết rồi mà mình tiếp cận được những kiến thức cao hơn trong tiền thức
trong khi ngủ và phát minh ra được những điều mới, cái mới mà thế gian chưa có
thì người ta gọi là nhà bác học, già sử như hồi xưa chưa có ti vi, téléphone
thì họ có được học cách chế tạo ra ti vi, téléphone bao giờ đâu, nhưng khả năng
hiểu biết ở thế gian họ hiểu hết chức năng của các con chip, hệ thống ráp nối mạch
điện, thì trong giấc mơ họ vào một thế giới văn minh hơn loài người, như phim
khoa học giả tưởng Starstrek ở một cõi trời khác, thế giới khác, như thấy các
bác sĩ khám bệnh ở thế giới ấy cầm một máy squip rà rà trên người biết bệnh của
bệnh nhân, rồi lại dùng máy khác rà rà trên người bệnh nhân thì khỏi bệnh, đó
là máy khám bệnh bằng quang và chữa bệnh bằng quang, hiện nay chúng ta đã có
máy quang là tia laser. tia hồng ngoại...lấy từ kiến thức ở cõi cao hơn thì chứng
tỏ con người đang tiến hóa được là do thượng đế ban cho thông qua các con người
bác học ấy, theo đạo Phật gọi là được các bồ tát các cõi ấy giúp cho mình tiến
hóa, đưa ý niệm đó vào bộ não của mình để mình tìm cách phát minh biến ảo tưởng
thành sự thật, kiến thức này có thể các nhà bác học được nhận trực tiếp trong
các giấc mơ rồi thực hiện hay qua trung gian người có tài viết văn được mơ thấy
viết thành truyện giả tưởng rồi các nhà khoa học phải nghiên cứu tại sao thành
cái đó và tìm tòi cách chế tạo biến ra thành hiện thực.
Hiện
nay khoa học đã tiến bộ, thí dụ như ở VN, mẹ tôi đang bị bệnh, máy bay không
có, không có phương tiện đi lại...mà tôi muốn gặp mẹ tôi, thì chỉ có các vị A
La Hán có thần thông mới gặp được mẹ mình, chứ mình người thường đâu có được,
như vậy phải làm sao chế được cho dân gian cũng có thần thông, phải chế được
cái ti vi, khi mình nói chuyện được với mẹ mình có tiếng nói và hình ảnh, như
hiện nay là điện thoại di động có hệ thống Viber, thì lúc đầu các nhà bác học
phải ao ước chế tạo ra sản phẩm ấy thì cần phải thiền. Định nghĩa thiền rất đơn
giản, là ôm ấp một vấn đề chưa giải quyết được cho đến khi giải quyết được
thành công là kết quả của thiền, thì vấn đề đó được quan tâm liên tục từ ngày
này sang ngày khác ráp nối thành hệ thồng để thực hiện từng bước cho đến khi
thành công, thiền là đưa ý tưởng trong đầu
suy nghỉ là vô tình bắn tín hiệu vào không gian, giống như tầu thủy bị lâm nạn
cứ đánh morse gủi tín hiệu SOS, tự nhiên các tầu khác đi gần bắt được tín hiệu
và định vị nơi xin cấp cứu thì các tầu khác đến cứu ngay, thì thiền cũng là bắn
tín hiệu vào không gian, các vị bồ tát nơi các cõi thế giới khác ai biết về
lãnh vực mình muốn sẽ gửi lại tín hiệu cho mình trong lúc mình thiền bắt được,
hiện ra bằng hình ảnh trong đầu, khi thức dậy lả thực hiện ngay thì ít nhất
mình phải là nhà khoa học giỏi mới hiểu biết để thực hiện theo sơ đồ mà các vị
bồ tát chỉ dẫn qua giấc mơ cho đến khi hoàn chỉnh cho con người sử dụng được,
người ta mới gọi người phát minh ấy là nhà bác học chứ.
Vì
thế Phật đã từng nói : Tiếng nói của ta lồng lộng trong không gian mà các ngươi
không nghe được thôi, thì bây giờ có ti vi chúng ta đã nghe được tổng thống của
nước này nói mà cả thế giới đều nghe được, là nhờ ai, là nhờ các nhà bác học,
đã học hết kiến thức của thế gian và ôm ấp một ao ước hoàn thành một điều mới lạ
hữu ích mà thế gian chưa có thì mới được các vị bồ tát các thế giới văn minh
hơn tiếp cận giúp mình hoàn thành tâm nguyện, muốn được như vậy cũng phải nhờ
quang là sự hiểu biết mọi sự vật, chân lý sự thật của vạn vật, của sự sống con
người....
Trên
tầng cao hơn quang là các thế giới cao hơn loài người có sẵn rất nhiều kiến thức
nằm trong không gian, vũ trụ mà Đạo Phật gọi là tam thiên đại thiên thế giời, nếu
nhà bác học cõi thế gian chú tâm giúp con người văn minh tiến bộ, tiến hóa thì
mới gọi là bồ tát.
Về
y học làm sao ao ước phát minh ra máy nào phát hiện ra bệnh, thì ngày nay đã có
máy scan, còn ao ước có máy nào chữa bệnh gọn nhẹ, bằng quang, laser, hồng ngoại
chữa khỏi bệnh một cách nhanh chóng đơn giản thì chưa có ở thế gian nhưng các
nhà khoa học vẫn ao ước một máy squyp như ở cõi Starstrek chì rà qua nơi nào
máy kêu ti ti là biết nơi đó có bệnh rồi đến khi hết kêu ti ti là hết bệnh ?
Như vậy hệ thống chữa bệnh ưu việt vẫn là hệ thống quang là tốt nhất mà con người
đang ao ước.
Trong
kinh sách Đạo Phật kinh Đại Bảo Tích, Phật nói 1 câu này mà chúng ta cần phải
khám phá : Thức ăn biến thành chất lỏng, chính đông y gọi là sự khí hóa,
là phải có khí lực co bóp thức ăn đặc cứng chuyến hóa nó thành chất lỏng, giai
đoạn này bỏ trống cho chúng ta suy nghỉ tìm tòi cách nào làm sao biến thức ăn đặc
thành chất lỏng, thì chỉ có môn Khí Công Y Đạo gọi là ngành Y Học Bổ Sung Thực
Dụng hướng dẫn cách ép gối thổi hơi ra làm mếm bụng, ép 300 lần có nghĩa là co
bóp nhồi bao tử 300 lần thì thức ăn mới hóa lỏng được. Vì lười tập, có người nói, thầy ơi, nhiều
quá, em chỉ tập có 30 lần, tập thế thì thức ăn làm sao biến thành lỏng đươc,
nên không biến thành máu và mỡ...thì làm sao có máu nuôi thịt, mỡ nuôi xương
như lời Phật dạy.
1-Tại sao Khí Công chữa khỏi được các bệnh ?
Khí công chữa bệnh là làm cho chất khí càng ngày càng tích lũy bằng
cách luyện hơi thở, nó là chất cao hơn chất thủy, chất thổ, có nhiều phương
pháp luyện thở đưa khí đi khắp nơi trong thân từ đầu đến chân, từ chân lên đầu,
đi vào các khe kẽ thông ra tay chân và từ đầu tay chân thu khí vào trong cơ thể,
có công dụng tạo lực đẩy máu tuần hoàn, thay đổi oxy cho máu xấu thành máu tốt,
dẫn máu nuôi thổ đến nơi chỗ thổ bị bệnh để thay đổi tế bào, sinh sản tế bào
lành, thay thế loại bỏ tế bào bệnh, theo nguyên tắc sinh hóa chuyển hóa nghịch
từ chất cao là chất khí dương sinh hóa ra khí âm, để chất thủy nhận khí âm chuyển
hóa thành thủy dương lại sinh hóa thành thủy âm, để chất thổ nhận thủy âm sinh
hóa thành thổ dương phục hồi thay thế những tế bào bệnh.
Tập khí công luyện thở, mọi người nhìn thấy kết qủa rất rõ có sự
thay đổi tốt về phương diện Tinh-Khí-Thần :
Giai đoạn 1 : Tập khí công chữa thân bệnh dùng chất cao nuôi chất
thấp theo sinh hóa-chuyển hóa nghịch :
Tập khí công luyện hơi thở thì thân bệnh thuộc chất thổ, chất thủy,
chất khí không còn bị bệnh, khí công này không phải yoga, tài chi, nó là giai
đoạn chuyển Tinh hóa Khí.
Giai đoạn 2 : Tập luyện chất khí theo sinh hóa thuận để dưỡng thần
:
Khi khí dương dưỡng khí âm đầy đủ để bảo vệ chất thủy chất thổ,
thân thể sẽ khỏe mạnh không bệnh tật, tiếp tục luyện khí dư thừa khí dương được
chuyển hóa thành điện âm tích lũy duy trì những chất điện giải làm tăng cường hệ
thần kinh bền vững bén nhạy giúp hệ miễn nhiễm bảo vệ cơ thể. Giai đoạn này là
củng cố hệ thần kinh, Thần với Khí hòa hợp tạo ra sắc mặt hồng hào, có thần.
Giai đoạn 3 : Tiếp tục tập tăng thêm nhiều tích điện âm sinh hóa
thành năng lượng để cơ thể có khí lực thành nội lực, có nhiệt năng, điện năng
và từ trường dư thừa chuyển hóa thành chất quang âm, là giai đoạn hoàn tinh bổ
não.
2-Làm sao có chất quang để chữa khỏi bệnh ung thư ?
Theo đạo Phật chia làm 3 loại bệnh là : Thân Bệnh, Tâm Bệnh và
Nghiệp Bệnh
a-Thân Bệnh :
Tây y chỉ chữa được thân bệnh nằm trong chất thổ và chất thủy, còn
bệnh nặng nhất của chất thổ và chất thủy là bệnh ung thư không chữa được, chỉ tạm
thời cắt bỏ chất thổ, làm chậm phát triển mà không chữa khỏi hẳn vì không chữa
vào chất thủy, thay chất thủy và dùng chất khí để nuôi dưỡng chất thủy, do đó cứ
tiếp máu tốt (chất thủy) mà cơ thể không có oxy (chất khí) để duy trì máu đỏ, lại
biến tất cả thành máu xấu tàn phá hỏng chất thổ là tế bào mất sự sống.
b-Tâm bệnh và Nghiệp bệnh :
Cả tây y lẫn đông y đành bó tay, vì tâm bệnh thuộc thần kinh là chất
điện, còn nghiệp bệnh hoàn toàn xa lạ với ngành y, nên cần phải có chất quang.
Người giỏi nhất trong thế gian chữa được cả 3 loại bệnh này phải gọi
là Y-Vương, chính là Đức Phật. Phật đã chỉ ra phương pháp tu để giác ngộ và giải
thoát sanh tử, khi giác ngộ là biết nhìn thấu buông xả đó là chất quang, chữa
được 4 chất thấp là chất điện không còn lo sợ buồn giận làm thay đổi chất điện
bất bình thường, không làm chất khí bị xáo trộn, chất thủy không bị biến dạng
thành máu xấu ứ tắc và chất thổ là tế bào không bị đói làm biến dạng thành bệnh.
Nghiệp bệnh thuộc về tâm linh siêu hình :
Mỗi tế bào có sự sống là có linh hồn, thí dụ có một loài vật không
lồ to lớn gấp chúng ta 20 lần, và chúng ta là những thức ăn của chúng, chúng nắm
chúng ta trong bàn tay như củ sâm, vặt đầu, xé chân tay bỏ vào miệng ăn...chúng
ta căm giận tức tối vì đau đớn căm thù nó, muốn trả thù nó, trong đông y tạng
gan chúng ta chứa máu, tàng hồn của chúng ta, khi chúng ta căm giận thì máu
chúng ta trở thành độc tố, khi chúng ăn vào, linh hồn chúng ta vào trong thân
nó sẽ bám vào tế bào trong thân xác chúng để phá phách cào cấu cắn xé nát tạng
phủ nó để trả thù, giống như Tôn Ngộ Không lọt vào bụng đâm chọc thiết bảng làm
cho ma vương đau quằn quại... .
Cũng như thế, nghiệp bệnh ung thư của chúng ta cũng do ăn mặn sát
sanh hại vật từ nhỏ cho đến lớn biết bao sanh linh bị chúng ta trực tiếp hay
gián tiếp hại chúng để nuôi thân ta. Như vậy chúng ta đã phạm giới luật của Phật
là phạm tội sát sanh.
Nên muốn chữa được nghiệp bệnh về sát sanh, bệnh nhân ung thư được
khuyên từ nay không được ăn mặn tránh gián tiếp gây thêm tội sát sanh mà phải
ăn chay, thức ăn lành hơn không độc hại, và chuộc lại tội sát sanh thì phải
phóng sanh cúu giúp những con vật bị người ta bắt giết ăn thịt, nuôi dưỡng lòng
từ bi thương những chúng sanh khác.
Phải cầu nguyện cho linh hồn họ tha thứ lỗi lầm vô minh vì đã gián
tiếp sát hại họ, cầu nguyện cho linh hồn họ được siêu thoát bằng cách họ cùng
tu với mình nguyện cầu tha lực chư Phật độ cho họ được siêu thoát, linh hồn họ
rời khỏi chúng ta thì những bướu ung thư ác tính đang làm chúng ta đau đớn, bầm
thối đen sẽ biến mất, đi tái khám bác sĩ sẽ nói đây là bướu lành, không còn tìm
thấy dấu vết tế bào ung thư nữa.
Khi một người giác ngộ hiểu đạo thì thân-khẩu-ý luôn giữ chân-thật,thiện-lành,hữu-ích,
là chất quang do sự giác ngộ, và cầu nguyện tha lực chư Phật là chất quang bên
ngoài cơ thể đem năng lượng vũ trụ chiếu rọi vào cơ thể, chính là loại thức ăn
năng lượng cho các tế bào khỏe mạnh, mà ít cần đến thức ăn có chất thổ chất thủy.
Biết nhìn thấu buông xả tham sân si, biết luật vô thuờng, biết luật
nhân qủa về thân-khẩu-ý để khi còn sống thì thân tâm khỏe mạnh không bệnh tật,
khi xa lìa thế gian thì được giải thoát. Vì thế tại sao những Phật tử bị bệnh
ung thư đi theo con đường giác ngộ là chất quang này tự nhiên khỏi bệnh ung
thư. Biết sống an vui trong hiện tại giữ
chánh niệm trong từng hơi thở.
Nhà đạo luôn thực hành phương pháp duy trì chất quang là :
Ngoài thân sáu cửa đà kiên cố
Trong dạ bẩy tình đã trống không
Tâm-tức điều hòa tiêu vạn bệnh
Dữ lành chẳng biết, ấy huyền công .
3-Hành động cụ thể nào để biết đã giác ngộ, nhìn thấu buông xả ?
Khi biết thân xác này là vô thường, giả tạm vay mượn để sống, để
tiến hóa, cuối cùng cũng phải chết, nhưng trước khi chết theo luật nhân-qủa,
không nên gây thêm nghiệp sát mà phải chuộc tội bằng những hành động tạo nghiệp
lành là phóng sanh, ăn chay.
Khi đã giác ngộ là một khúc quanh trong cuộc đời, họ từ chối chữa
trị tiêu diệt tế bào ung thư không muốn gây thêm nghiệp sát sanh tạo thêm oán
thù với các linh hồn để bị trả thù làm thân thể bị hành hạ đau đớn khổ sở hơn.
Chúng ta dành hết cuộc đời còn lại cầu nguyện ăn năn sám hối với
Phật, với Chúa soi sáng tâm hồn mình, giúp cho mình và những linh hồn các tế
bào trong thân người mình mà đạo Phật gọi là oan gia trái chủ tha nợ cho mình,
để cùng nhau tu tỉnh thân tâm trước khi lìa đời thân tâm được an lạc, thân
không còn bệnh tật ốm đau ra đi tự tại.
Những bệnh nhân theo Thiên Chúa Giáo, cũng đã từng nếm mùi đau khổ
vì bệnh tật mà tây y bó tay, đã từng quay về với Chúa để cầu nguyện :
Chúa ơi ! Con xin Chúa cứu con, một là Chúa cho con chết để thân
con không đau đớn nằm liệt một chỗ khổ sở thân con vô cùng, hai là Chúa cứu con
cho con khỏi bệnh, gặp thầy gặp thuốc. Con xin tạ ơn Chúa.
Như vậy là chúng ta đã quay về đời sống tâm linh, nhờ ánh sáng quyền
năng của Phật hay Chúa là nhờ đến tha lực vô hình, là chất quang giúp chúng ta
giác ngộ, thay đổi hoàn toàn cuộc sống mới thiên về tâm linh hơn là vật chất,
mà chúng ta khỏi được cả 3 loại bệnh là Thân bệnh,Tâm bệnh và Nghiệp bệnh.
III-PHƯƠNG PHÁP CHỬA UNG THƯ BẰNG ĐẠO HỌC.
A-Trong
cấu trúc cơ thể con người gồm 7 thể tâm linh là :
1-Thể
xác : Là cơ thể vật chất do các tế bào hợp thành tạng phủ, da thịt, gân, xương,
máu…giống như sự cấu tạo của một máy điện toán thuộc phần đĩa cứng. Nó chưa có
thể hoạt động được nếu không có phần mền vận hành.
2-
Sáu thể còn lại là : Thể phách, thể vía, thể hồn, thể ý, thể hạ trí, thể thượng
trí. Người thế gian gọi chung một danh từ là phần Linh Hồn
Khi
người mẹ thụ thai, khí huyết của người mẹ sẽ cấu tạo ra một cơ thể vật chất và
nuôi dưỡng nó trong bào thai cho đủ 9 tháng 10 ngày, nó sống được là nhờ khí
huyết của mẹ gọi là khí tiên thiên. Khi cơ thể vật chất
thành hình đầy đủ thì thể phách là một phần linh hồn nhập vào thai trước để duy
trì sự sống cho bào thai, giúp tuần hoàn máu. Thể hồn nhập vào bào thai cuối
cùng. Nhưng khi chết, thể hồn xuất ra trước bỏ lại xác, cho đến khi thể phách
không còn duy trì được hơi thở thì xuất ra cuối cùng lúc đó cơ thể vật chất là
thổ chết hẳn.
B-Chức
năng của các thể thuộc phần linh hồn :
Thể phách là phần hồn duy trì chức năng hô hấp của
phổi, giúp tim đập bơm máu tuần hoàn, lưu thông khí huyết duy trì sự sống cho
thể xác.
Thể vía là phần linh hồn giúp cơ thể, tạng phủ vận
hành, cử động.
Thể hồn là phần linh hồn giúp cho chức năng thần
kinh hoạt động biết cảm giác, phản xạ cho ra những cảm xúc tình cảm.
Thể ý
là phần linh hồn tàng trữ kiến thức cũ tích lũy từ nhiều kiếp qúa khứ (a lại da
thức).
Thể hạ trí là phần linh hồn do thu nhận kinh nghiệm học
hỏi những kiến thức mới trong đời sống hiện tại cũng nhập vào thể ý để điều khiển
tâm thức, nó thành hình kiến chấp và sở tri kiến chấp để tạo ra nghiệp lành
nghiệp dữ, tạo ra vô số những màn vô minh che lấp cản trở sự tiến hóa học hỏi của
linh hồn.
Thể thượng trí
không có trong bộ não người thường, nhà Đạo gọi là phàm phu, mà chỉ có ở những
người chứng ngộ đạo, ở những bậc thánh nhân, biết được quy luật vạn pháp do tâm
sinh, vạn pháp do tâm diệt, vạn pháp là huyễn, sắc tức thị không, không tức thị
sắc, nên tâm không còn dính mắc trần cảnh, bởi sắc thọ tưởng hành thức..
Nói
về bệnh tật, thì Thể Hạ Trí mới tạo ra sự phân biệt như cho rằng tây y là khoa học thực nghiệm chữa cụ
thể vào ngọn, còn đông y theo ngũ hành chữa bệnh vào gốc.
C-Phân âm dương trong cơ thể :
Theo
Dịch lý, Thần thuộc khí tiên thiên, gồm âm thần và dương thần. Khi còn sống âm
thần gọi là tinh là âm chủ huyết,
dương thần là khí hô hấp. Khi chết
thì tinh gọi là hồn, khí gọi là phách. Khi sống thì nhờ dương khí chủ động vận
hành sự sống, khi chết thành âm khí gọi là hồn phách.
Hồn
có thanh ở nơi dương khí ban ngày xuất ra nơi mắt, nên đông y nói gan khai khiếu
ra mắt, người tây phương nói con mắt là cửa sổ của linh hồn.
Phách
ở thể động ở nơi tai nghe, thể tĩnh ở nơi mắt thấy.
Phách
có truợc ở nơi âm khí, ban đêm xuất ra ở gan, ban ngày mắt thấy thu vào hồn,
phách ban đêm ở gan làm ra chiêm bao.
Chiêm
bao nhiều thì phách thắng hồn, còn thấy biết nhiều thì hồn thắng phách.
D-Bệnh nhân muốn hết bệnh, không bị bệnh phải làm sao ?
Cần
phải học hiểu Đạo để phát triển Thể Thượng Trí.
Do
kinh nghiệm của các bậc thượng trí, thánh nhân, thì Tánh và Mạng song tu hợp nhất là Đạo,
nên môn học Đạo là con đường cuối cùng của môn học Khí Công Y Đạo.
Mạng
là thể vật chất, là thể xác mang chất âm, có thể sờ mó nhìn thấy được, nó cũng
được nuôi sống các tế bào bằng những thức ăn nên thuộc phần Tinh âm.
Tánh là
thể linh hồn không thấy được nên thuộc phần Khí dương. đưọc biểu hiện trên thân xác là Thần khí, là khí và mầu
sắc của khí, có nghĩa là da thịt hồng hào, thân thể nhanh nhẹn, không bệnh tật.
Đạo gọi là Thần với Khí hòa hợp.
Về
Phật học :
Phật tại tâm, ngoài tâm không có Phật. Phật là
Tánh đã giác ngộ, như vậy sự giác ngộ nhờ tâm, ở tại tâm, mà tâm của con người
chính là Thần và Khí trong thân xác của ta, khi Thần Khí hòa hợp không bị vô
minh che lấp làm loạn động thần khí thì thân xác không bệnh tật, cao hơn nữa,
trên con đường học hiểu đạo để đạt Đạo mới trở thành thánh nhân.
Thế
gian thường nói :
Cha
mẹ sanh con, trời sinh Tánh. Như vậy Tánh
là linh khí tiên thiên tàng ở tâm mỗi người trở thành Thần. là linh hồn của tiền
kiếp tái sanh trong một thân xác mới. Còn Mạng
là nguyên khí hậu thiên nuôi dưõng thân xác nuôi dưỡng thần cũng ở tâm, còn khí
tụ ở thân tạo ra thân xác khỏe mạnh hay gầy yếu.
Tánh+Mạng
tuy hai mà nhập thành một vì Thần chẳng lìa Khí, cũng như Tánh chẳng lìa Mạng.
Phàm
phu nhìn con người chỉ đơn giản có hai thể là Thể Xác và Linh Hồn chứa nhiều
tánh linh, như là những vị thần, nên theo ngũ hành của đông y về chức năng của
những phần hồn này chia làm 5 loại :
Tâm tàng Thần, tỳ tàng Ý, phế tàng Phách, thận tàng Tinh và Chí (nghị lực), gan tàng Hồn được nuôi dưõng huân tập tốt xấu bằng
khí hậu thiên (khí hậu thiên là vật chất và tinh thần của con người được nuôi
dưỡng sau khi sanh ra).
Gan
tàng hồn, dự trữ máu cung cấp cho tim bơm máu tuần hoàn, ngũ hành thuộc mộc, mầu
xanh. Khi cơ thể vật chất đau đớn nhiều do thiếu máu, mất máu, lúc đau đớn hành hạ cơ thể, thì có biểu hiện
da và mặt xanh xao, lúc đó thể hồn xuất ra ngoài, nên chúng ta thấy người bệnh
nặng như người mất hồn, mộc hư thì hỏa hư, hỏa thuộc tâm tàng thần nên khi nhìn
mặt bệnh nhân thấy cũng mất thần sắc.
Điều
quan trọng để duy trì sự sống cho thể vật chất là phải duy trì thể hồn đừng rời
bỏ cơ thể. Gan là nhà ở của thể hồn, mà căn nhà hư hỏng thiếu tiện nghi, căn
nhà sụp đổ thì thể hồn mất nơi cư trú, nó sẽ rời khỏi thể xác, vì thế cơ thể sẽ
chết. Căn nhà sụp đổ có nghĩa là gan thiếu máu trầm trọng, không cung cấp máu
cho tim tuần hoàn, làm các tế bào chức năng mất nuôi dưỡng, khí huyết thiếu, tắc,
ngưng hoạt động gây ra đau đớn cho cơ thể toàn thân, chúng ta đã biết được điều
này khi đo áp huyết ở những bệnh nhân
không còn ãn uống gì được nữa thì áp huyết chỉ
còn dưới 80mmHg trong các bệnh ung thư nặng.
Những trường hợp này vẫn còn có thể cứu sống được, nhưng cần phải biết bất cứ
chữa cách nào theo đông tây y, theo thuốc
đặc trị diệt tế bào ung thư, hay thuốc gia truyền hay bất cứ loại thần dược
nào, mà áp huyết tăng lên dần dần cho đủ 130mHg
là khỏi bệnh, lúc đó cơ thể đủ khí huyết tuần hoàn sẽ hết đau đớn, ngược lại áp
huyết tụt xuống 70mmHg thì cơ thể quá đau đớn thì thể hồn sẽ lìa khỏi xác, đứng
ra bên ngoài cơ thể. Nếu cơ thể được tiếp truyền máu làm tăng áp huyết thì thể
hồn sẽ lại nhập vào cơ thể để giúp chức năng gan hoạt động co bóp bơm máu cho
tim tuần hoàn, cái đau sẽ giảm
dần và biến mất.
Như vậy muốn điểu trị những bệnh ung thư là phải cần tiếp
máu bổ máu, chứ không phải thuốc diệt tế bào ung
thư, hay thuốc giảm đau morphin, vì
căn nhà gan sụp đổ vẫn không được sửa chữa tức là tiếp máu cho gan đầy đủ, như
thế thì thể hồn vẫn bị mất nơi ở, đành phải xuất ra ngoài không còn giúp gì cho
sự co bóp gan để cho tim tuần hoàn máu, vì không còn máu trong gan, càng làm cơ thể tăng cái đau nhiều hơn cho đến chết.
Còn morphin là giết chết thần kinh cảm giác, làm các chức năng hoạt động yếu dần
cho đến khi ngưng hẳn, linh hồn giống như bị bỏ rơi đuổi ra khỏi căn nhà, bị Ý
dẫn theo tâm thức lúc cận tử nghiệp lành hay dữ, nơi thể Phách thoát ra khỏi
xác.
Khi
thể hồn đã xuất ra, thì thể linh hồn thuộc khí, chúng ta không thấy bằng mắt
thường, chỉ thấy được bằng con mắt thứ ba. Đặc biệt thể hồn không bao giờ bị bệnh,
tàn tật, hay đau đớn. Chúng ta biết được điều này qua những giấc mơ, như một
người bị bệnh tê liệt chân tay không cử động được, không nói được, hay cụt tay
chân...nhưng trong giấc mơ cơ thể vẫn nguyên vẹn đầy đủ, vẫn đi đứng cử động ăn
nói bình thường, còn có thể đi chơi xa từ nước này đến nước khác và trở về nhập
lại vào xác nhờ một sợi dây bạc vô hình, thể hồn giống như con diều, sợi dây bạc
vô hình giống như sợi dây diều, thể xác giống như người cầm dây diều.
Cách
chữa những bệnh ung thư hiện nay theo tây
y gọi là khỏi bệnh hết tế bào ung thư chỉ là để cứu thể xác bằng phương tiện vật
chất, tức là cứu Mạng chứ chưa khỏi hẳn hoàn
toàn vì tây y không xem tình trạng khí huyết trong cơ thể là quan trọng, nên áp
huyết hơn 100mmHg cho là tốt, nhưng nó chưa lên đủ tiêu
chuẩn tuổi, dễ bị tụt thấp xuống trở lại thì cho là di căn. Các phương pháp chữa bệnh hiện nay không biết cách giữ
linh hồn để linh hồn được tồn tại lâu trong thân xác kéo dài mạng sống và tuổi
thọ.
Vì
theo ngũ hành, gan tàng hồn thì gan phải đầy đủ máu, có nghĩa áp huyết phải được
duy trì đúng tiêu chuẩn tuổi, gan muốn mạnh thì mẹ của gan là thận tàng tinh, để
sinh ra tế bào cũng phải được thức ăn bổ máu chuyển hóa cung cấp từ bao tử tạo
ra chất bổ máu, và máu cần nhiều oxy để bảo quản máu phải do hơi thở thì chức
năng của phổi phải hoạt động tốt bằng cách luyện thở để duy trì thể Phách, khi
hơi thở ở phổi yếu dần thì thể phách xuất ra khỏi cơ thể cuối cùng, tim sẽ
ngưng đập. Cho nên đông y muốn chữa khỏi những bệnh ung thư hay bệnh nan y thì
cần phải duy trì 3 yếu tố Tinh-Khí-Thần hòa hợp.
Nếu
không cứu linh hồn, chuyện gì sẽ xảy ra sau khi hồn lìa khỏi xác. Vì linh hồn
chỉ mượn từ thân xác này đến thân xác khác tiếp tục học hỏi và tiến hóa trải
qua nhiều đời...nếu tiến hóa cao thì trở thành thánh nhân, tiến hóa lùi trở
thành phàm phu đều do phút lâm chung hồn lìa khỏi xác để tái sanh trong 3 cõi luân
hồi :
Xem
thêm chi tiết 3 cõi :
E-Cách cứu linh hồn :
Chúng
ta nhớ quy luật :
Hồn
phách hay tinh khí gọi chung là thần, mà hồn giống như ngọn gió, còn phách giống
như luồng khí. Nên khí của phách thanh nhẹ thì bay lên theo gió là hồn, còn
phách trược theo gíó đi xuống.
Thánh nhân lấy hồn kéo phách lên. Phàm phu lấy phách kéo hồn
xuống, vì phàm phu hay có ý móng khởi, phân
biệt làm cho thần của ngũ hành cứ sinh sinh hóa hóa luân hồi chẳng dứt. Còn
thánh nhân, tánh không dời đổi, tâm không móng khởi thì không dẫn ý theo hồn
theo phách, nên không sinh không tử, dứt vòng luân hồi sanh tử, hay nói khác
đi, không có bệnh nào sinh ra, không có bệnh nào bị diệt, bệnh do tâm sanh, bệnh
do tâm diệt.
Phách
điều khiển hơi thở ở phổi, là khí, nơi nào có khí đến thì huyết đến, có nghĩa
là chỗ nào có máu chạy thì chỗ đó nóng ấm, theo đông y thì thể Ý dẫn khí là dẫn
thể Phách.
Khi
lâm chung, hồn phách lìa khói xác, máu ngưng không lưu thông trong cơ thể vật
chất để lại thể xác lạnh ngắt. Muốn biết linh hồn xuất ra khỏi cơ thể ở chỗ nào
thì chỉ có chỗ đó còn hơi ấm nóng tùy theo vị trí thể phách xuất ra để biết sự
tiến hóa của linh hồn ở thân kiếp sau :
Đỉnh
đầu ấm về cõi Phật, trán ấm về cõi thánh, ngực ấm trở lại làm người, bụng ấm
linh hồn rơi xuống cõi qủy thần, ấm đầu gối xuống cõi súc sanh làm thú, ấm dưới
chân rơi vào cõi địa ngục.
Khi
bào thai thành hình đầy đủ, linh hồn nhập vào ngũ hành tạng phủ thì gọi là Tiên
Thiên Dương Ngũ Hành giúp cho Tánh+Mạng biết giữ gìn kỷ cương là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
Nguyên
Thần hỏa nhập vào tâm, biết giữ Lễ.
Nguyên
Tinh kim nhập vào Phế biết giữ Nghĩa.
Nguyên
Tinh thủy nhập vào thận, biết giữ Trí.
Nguyên
Tinh mộc nhập vào gan biết giữ Nhân.
Nguyên
Khí thổ nhập vào trung ương Tỳ, biết giữ Tín
Thánh
nhân nói : Nhân chi sơ tính bản thiện nhờ khí tiên thiên, 6 căn là mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân, ý, chưa nhiễm thọ 6 trần cảnh xấu như :
Mắt
ưa xem huyễn cảnh hàng ngày.
Tai
thích tiếng mật đường dua nịnh.
Mũi
quen ngửi mùi thơm bất tịnh.
Lưỡi
dệt thêu lắm chuyện gay go.
Thân
ham dùng gấm vóc se sua.
Ý
mơ tưởng bao la vũ trụ.
Khi
tiếp xúc với đời sống hàng ngày, bị huân tập nhiều tánh xấu do sự nuôi dưỡng thể
xác và học hỏi kinh nghiệm cảnh trần mới tạo ra Hậu Thiên Âm Ngũ Hành, thì ngũ
hành bị biến đổi phân hóa :
Nguyên
Thần hỏa giữ Lễ biến ra Thức Thần thành
Lạc, ưa thích An ổn
Nguyên
Tinh kim giữ Nghĩa biến ra Qủy Phách thành Nộ, ưa thích Giận.
Nguyên
Tinh thủy giữ Trí biến ra Qủy Thần thành trọc tinh, ưa Ái dục
Nguyên
Tinh mộc giữ Nhân biến ra Du Hồn thành Hỉ, ưa thích Vui
Nguyên
Khí thổ giữ Tín biến ra Dục Vọng thành Ý, ưa thích Ham muốn suy nghĩ lung tung
Theo giáo lý của Đạo Phật :
Nhất thiết duy tâm tạo, Ý dẫn
đầu các pháp. Ý thuận theo ngũ hành thì phàm nhân bị phân hóa từ một điểm linh
quang khi thụ thai, một bản thể không có âm dương thành dương khí tiên thiên và
âm khí hậu thiên sanh ra vạn hữu mới có khổ đau sanh tử luân hồi, phiền muộn,
sa đọa, phân tán thì chẳng có gì cao đẹp trên con đường học hỏi và tiến hóa.
Ngược
lại thánh nhân biết dừng Ý, giữ Tinh-Khí-Thần hòa hợp trở về trạng thái duy nhất,
chuyên nhất, gọi là nguyên khí, nguyên tinh, nguyên thần hợp nhất với thần
linh, biết tu đức luyện thần trở về cội nguồn là Đạo, không còn âm-dương mà âm
dương hợp nhất gọi là Đạo.
Với
nguyên tắc Đạo Học để chữa thân bệnh, nghiệp bệnh giúp linh hồn tiến hóa trở về
Chân Ngã cần phải áp dụng phương pháp Tánh+Mạng song tu hợp nhất, phải bắt đầu
từ Ý kết nối thể xác và linh hồn, giũ Thần với Khí nhất tâm hòa hợp không móng
khởi tâm viên ý mã, lúc đó thần có nơi an trụ vững vàng thì thân không bệnh tật
khi còn sống và được tự tại vãng sanh, lìa khỏi đớn đau khi hồn rời khỏi xác
thoát ra đỉnh đầu.
F-Nguyên tắc chung chữa các bệnh ung thư :
1-Giữ
cho gan đủ máu để dưỡng thần sắc, bằng ăn uống tẩm bổ những chất sinh máu, và
tiêm vào máu B12 để cơ thể khỏi đau đớn do thiếu máu trong gan, để duy trì thể
hồn không lìa khỏi xác.
Về
Đạo Học, gan chứa máu, tàng hồn. Gan thiếu máu, hồn mất nơi nương tựa thì hồn
lìa khỏi xác.
Về
Y Học máu nuôi tế báo, gan thiếu máu, tế bào mất nuôi dưỡng thì bệnh.
Như
vậy chết vì ung thư không phài do tế bào ung thư hay di căn toàn thân cũng là
toàn thể các tế bào không còn máu do gan thiếu máu nặng, do không bổ máu, thì hồn
mất nơi nương tựa, thì hồn lìa khỏi xác thì chết.
Cần
phải bỏ ngã chấp tri kiến và sở tri kiến chấp về y học, là những màn vô minh học
hỏi huân tập từ thế gian làm trở ngại sự phục hồi tánh mạng hợp nhất, làm loạn
Ý.
Nhưng
vì tây y không tin ung thư là do thiếu máu, nên không chịu chích B12 hay truyền
máu nên bệnh nhân mới bị chết vì tế bào thiếu máu bị chết dần.
Có
thể mua B12 loại chích có bán trên mạng, nhờ y tá chích mỗi ngày, giúp phục hồi
sự sống cho các tế bào, làm ăn ngon, lên cân, giảm đau, khi áp huyết từ tình trạng
ung thư nguy kịch 70mmHg tăng lên 130mmHg thì khỏi bệnh :
http://www.ask.com/web?q=B12+Injection+for+Weight+Loss&o=4802&l=dir&qsrc=466
2-
Ý trụ đỉnh đầu huyệt Thiên Môn làm tăng áp huyết cho não và giữ Ý ở hệ thần
kinh trung ương kích động các chức năng tạng phủ làm việc. Ý dẫn đầu các pháp,
Ý ở trên đầu thì khí huyết trên đầu, khi hồn lìa khỏi xác theo ra đỉnh đầu khi
gan không đủ máu giữ thể hồn.
3-Muốn
giữ thần sắc hồng hào, cơ thể cần chất sắt trong B12 để tạo máu có công thức
máu là oxyde sắt tam Fe2O3, có nghĩa là máu cần oxy từ hơi thở để duy trì giữ
công thức máu khỏi tan vỡ chỉ còn lại chắt sắt làm cơ thể dư chất sắt mà vẫn bị
thiếu máu. Nên cần phải theo dõi hơi thở ở đỉnh đầu nơi Ý đang trụ ở đỉnh đầu.
4-Muốn
Thần với Khí hòa hợp nhất tâm bất loạn, tránh Tâm viên Ý mã, và muốn cho linh hồn
được tiến hóa thì Ý niệm thầm trong đầu hay nhấp môi khẽ 4 chữ A-Di-Đà-Phật hay
A-Lê-Lui-A cho những người theo Thiên Chúa giáo để có một niềm tin duy nhất vào
Thượng Đế, là tượng trưng cho một đấng đã giác ngộ toàn năng toàn giác, giữ cho
Tâm bình yên, tâm dừng mọi suy nghĩ, lúc đó chính tâm là Phật chứ Phật không ở
ngoài tâm.
Vạn
pháp do tâm sanh giống như có nghĩa vạn bệnh do tâm sanh. Vạn pháp do tâm diệt,
có nghĩa là vạn bệnh do tâm diệt. Nên thánh nhân biết dừng tâm. Còn bệnh nhân
phải biết dùng tâm tánh chuyển mạng bệnh, chứ đừng để mạng bệnh chuyển tâm tánh
sẽ bị đọa vào tam cõi luân hồi.
Vẫn
áp dụng phương pháp này giữ cho Thần với Khí hòa hợp là cách luyện đơn trong Đạo
Tiên Thánh, gọi là Tánh-Mạng song tu thì thân thể khỏe mạnh không bệnh tật, và
linh hồn được tiến hóa ở mức cao hơn cho đến khi giác ngộ đạt Đạo.
Về
thức ăn tránh dùng những thức ăn có chất chua làm mất máu, mất hồng cầu và làm
hạ áp huyết, cần phải ăn những thức ăn bổ máu, thuốc bổ máu, bổ đưởng.
Có
thể dùng CD/DVD dưới đây để tập giúp cho Thần Khí hòa hợp
CD niệm Phật Tứ giai và Ngũ giai . Phương Pháp Thiền Tịnh
Song Tu
http://khicongtinhdo.blogspot.ca/p/blog-page.html
http://www.youtube.com/watch?v=2nKq5ubbPN8
http://www.youtube.com/watch?v=xo-vZ9WTQ50
Video Niệm Phật Địa Chung tứ giai từ chậm đến nhanh ( Thầy Thích Giác Nhàn)
http://www.youtube.com/watch?v=2nKq5ubbPN8
http://www.youtube.com/watch?v=xo-vZ9WTQ50
Video Niệm Phật Địa Chung tứ giai từ chậm đến nhanh ( Thầy Thích Giác Nhàn)
http://www.youtube.com/watch?v=I-FyZD1u3fw
Công dụng của CD niệm Phật này để niệm theo giúp hành giả giữ được nhất tâm bất loạn, để luyện hơi thở đều, để tập thở thiền quán tức theo dõi hơi thở bụng, để theo dõi hơi thở ra vào trên huyệt Thiên Môn ở đỉnh đầu (Luân Xa 7), để tập Sổ Tức khi cuốn luỡi ngậm miệng, để tập cho bệnh nhân bị tai biến mạch máu não tập nói, tập đi từ chậm đến nhanh, và cho những bệnh nhân bệnh mất trí nhớ, kém tập trung, làm tăng oxy cho máu nuôi tế bào, tập thở bụng trước khi đi ngủ để có giấc ngủ ngon...
Công dụng của CD niệm Phật này để niệm theo giúp hành giả giữ được nhất tâm bất loạn, để luyện hơi thở đều, để tập thở thiền quán tức theo dõi hơi thở bụng, để theo dõi hơi thở ra vào trên huyệt Thiên Môn ở đỉnh đầu (Luân Xa 7), để tập Sổ Tức khi cuốn luỡi ngậm miệng, để tập cho bệnh nhân bị tai biến mạch máu não tập nói, tập đi từ chậm đến nhanh, và cho những bệnh nhân bệnh mất trí nhớ, kém tập trung, làm tăng oxy cho máu nuôi tế bào, tập thở bụng trước khi đi ngủ để có giấc ngủ ngon...
VI-SỰ
CHẾT CỦA CON NGƯỜI THEO ĐẠO HỌC :
Sự
sống của con người là thuận theo tự nhiên do tứ đại từ thấp đến cao hợp thành rồi
khi sự chết đến thì từng đại từ cao xuống thấp của con người tan rã trở về với
lòng đất mẹ..
Thân
con người được hợp thành từ 5 cấp từ lúc tạo ra hình thể thân xác cấp thổ từ tế
bào hợp thành bào thai, cấp thủy là máu nuôi tế bào, cấp phong là khí của ngũ tạng
thai nhi trong bụng mẹ, là hơi thở khi thoát ra khỏi bụng mẹ, cấp hỏa là thần
kinh giao cảm vận động, tình cảm và những cảm xúc, và cấp quang là bộ óc chứa tế
bào não dùng để thu thập học hỏi kinh nghiệm tiến hóa ở kiếp hiện tại sẽ được
ghi trong bộ não hình thành cấp quang là thể hạ trí tối đa khoảng 10%, còn khai
mở thượng trí cũng trong bộ não lưu trữ đến 90% trong nhiều kiếp cũng được cất
trong bộ não khi mình được sinh ra, nên cổ nhân mới có câu : Cha mẹ sinh con,
trời sinh tánh.
Khi
cấp quang bị xóa bỏ từ khi bộ não mất trí nhớ xóa sạch, thì cấp điện là thần
kinh không còn, nên người già sắp chết, chúng ta thấy mất cấp quang là mất trí
nhớ, không tỉnh táo, mất cấp hỏa đại, người không còn sức nóng, rối mất cấp
phong đại, không còn thở, là đã chết, rồi nước trong người chảy ra là mất thủy
đại, rồi khi thân xác tan mất thân thổ trở thành cát bụi. Cuối cùng cát bụi trở
về với cát bụi trong khoảng thời gian hợp tan 100 năm của một đời người, linh hồn
là đại linh quang lại tìm vào một thân xác mới sắp tổng hợp thành tứ đại trong
bụng của một bà mẹ.
Y Học Bổ Sung Thực Dụng đã hướng dẫn mọi
bệnh nhân cách tự chữa bệnh, muốn biết tốt hay xấu, phải kiểm chứng trước và
sau khi dùng thức ăn hay bất cứ loại thuốc uống nào, phải theo dõi cách chữa bằng
tinh (thức ăn và thuốc uống), bằng tập luyện khí, mỗi ngày có làm tăng khí lực không, có làm
tăng bổ máu không, có tăng đường không, có làm cho áp huyết tăng lên dần mỗi
ngày để lọt vào tiêu chuẩn không, có chuyển hóa thuận thức ăn thành chất bổ máu
không hay chuyển hóa nghịch, hay lại làm áp huyết càng ngày càng tụt thấp, hay
làm hạ thấp đường để rồi mất trí nhớ là mất chất quang, làm cơ thể càng đau đớn
do thiếu máu làm mất chất điện, làm mất chất khí khó thở, thiếu oxy, làm mất
máu là mất thùy, đến đây là hồn sắp lìa khỏi phách, làm gầy ốm xuống cân làm mất
thổ có nghĩa là thân mạng ta đang đến gần sự chết tan rã của tứ đại.
Bất
cứ chữa bệnh ung thư bằng cách nào mà không bổ thêm máu, thêm đường, thêm oxy,
thì dẫn đến tình trạng gan thiếu máu thì chết, chứ không phải tại ung thư mà chết.
Vì
chúng ta đã biết rõ nguyên nhân tế bào bị ung thư lá do tế bào thiếu máu, thiếu
khí, thiếu đường là Tinh-Khí-Thần không hòa hợp, cho ra kết quả thấy được là
máy đo áp huyết thấp là tâm thu Khí lực thấp là thiếu khí, tâm trương huyết lực
thấp là thiếu máu, nhịp tim rối loạn do đường-huyết là thần không ổn định.
Nguyên
tắc chữa là phải phục hồi sự sống cho tế bào bệnh là bổ máu, bổ đường, bổ khí
là tập khí công tăng cường khí lực. Theo dõi đo áp huyết, đường, càng ngày càng
tăng lọt vào tiêu chuẩn tuổi và người càng hồng hào hết gầy ốm thì khỏi bệnh,
ung thư tự khỏi, bướu tự biến mất.
doducngoc