CHỮA BỆNH TIỂU ĐƯỜNG VÀ BIẾN CHỨNG
Phân tích những bài thuốc kinh nghiệm đông y : Chữa bệnh
tiểu đường và biến chứng
Chúng ta thường có thói quen khi bị bệnh, gặp bạn bè
hay người thân thuộc chỉ mách cho một toa thuốc gia truyền của gia đình đã từng
chữa khỏi giống như bệnh mà mình đang mắc phải để mình uống thử xem sao. Đôi
khi mình dùng may ra khỏi bệnh, có khi lại không thấy bớt mà không hiểu tại
sao.
Vì toa thuốc được viết ra sau khi thầy thuốc đã chẩn mạch
chỉ áp dụng riêng cho bệnh nhân đó, dựa trên những biến đổi rối loạn chức năng
phủ tạng của mỗi người mỗi khác. Thầy thuốc đông y giỏi vừa phải biết tìm ra sự
mất quân bình khí hóa của tạng phủ nào theo bát cương về khí, huyết, hư thực,
hàn nhiệt, biểu lý, vừa phải biết tính dược của loại cây cỏ nào về tính, khí, vị
từng loại, liều lượng bao nhiêu cho vào cơ thể để tái lập lại quân bình khí hóa
chức năng tạng phủ, như thế thì bệnh sẽ hết.
Nếu những bài thuốc đó có kết qủa, mà đem áp dụng lại
cho những bệnh nhân khác có cùng bệnh chứng và mạch bệnh mà thầy thuốc cho là
giống nhau, lại có kết qủa như thế từ đời này sang đời khác, thì đó chính là những
bài thuốc kinh nghiệm nhân gian.
Một thầy thuốc giỏi, sau khi đã chẩn bệnh bắt mạch cho
một bệnh nhân, nếu bệnh nhân đưa cho thầy thuốc một toa thuốc gia truyền hay
toa thuốc kinh nghiệm mà bạn mình uống đã khỏi bệnh, để hỏi thử thầy thuốc xem
mình có dùng được không, thầy thuốc cũng phải đối chứng vị thuốc trong toa có
phù hợp với chứng bệnh của người bệnh không mới quyết định cho dùng hay không,
và thầy thuốc phải giải thích tại sao dùng được hay tại sao không dùng được.
Cho nên chúng ta không phải là thầy thuốc làm sao dám bảo đảm toa thuốc kinh
nghiệm nhân gian ấy có hợp với bệnh của bạn mình hay không mà mách giúp. Bởi lẽ
đó mà những bài thuốc kinh nghiệm nhân gian dần dần mất đi sự tin cậy của bệnh
nhân.
May mắn thay, ngày nay khoa học tiến bộ, ngành khoa học
thực nghiệm tiến vào lãnh vực phân chất dược tính cây cỏ và trải qua nhiều cuộc
thử nghiệm đã cho thấy nhiều kết qủa đáng tin cậy, thí dụ ngày xưa một người bệnh
có triệu chứng cổ khô khát, uống nhiều không đã khát, người nóng, đầu căng, da
đỏ khô ngứa, gãi xước da, vết xước lâu lành, những dấu hiệu đó ngày nay tây y
cho thử máu và đo áp huyết sẽ kết luận là bệnh tiểu đường và áp huyết cao,
nhưng thầy thuốc đông y không gọi tên bệnh như tây y, mà gọi theo chứng bệnh của
tạng phủ, thí dụ như chứng nhiệt thịnh nội táo, chứng khí âm lưỡng hư, chứng
can thậm âm hư, chứng âm dương lưỡng hư, chứng tiêu khát...và cho toa thuốc phù
hợp với chứng bệnh, bệnh nhân được khỏi bệnh mà không cần biết con số chính xác
áp huyết cao bao nhiêu, lượng đường trong máu bao nhiêu. Những vị thuốc trong
toa được tây y đem phân chất, thí nghiệm trên thỏ, tiêm vào thỏ cho tăng lượng
đường trong máu hay cho tăng áp huyết, sau đó chích vào thỏ dung dịch chiết suất
từ dược thảo mà đông y dùng, đều nhận thấy hoạt chất trong dược thảo ấy có tác
dụng làm giảm đường huyết hoặc làm hạ áp huyết. Cứ tiếp tục thử nghiệm trên nhiều
vị thuốc đông y khác, các nhà khoa học trên khắp thế giới có nhiều những cuộc
thử nghiệm khác nhau đều cho những kết qủa giống nhau về tính dược đông y theo
tiêu chuẩn tây y. Những hiểu biết về tính dược đông y do kinh nghiệm chữa bệnh
nhiều đời để lại, tuy là những câu rất ngắn ngủi nhưng vẫn đầy đủ ý nghĩa rất
có giá trị cho các thầy thuốc đời sau dùng để đối chứng trị liệu lâm sàng. Còn
đối với chúng ta, nhờ có những phân tích theo tây y cho từng loại dược thảo ghi
trong bài thuốc kinh nghiệm nhân gian, chúng ta mới có thể tự mình so sánh lợi
hại để ứng dụng xem bài thuốc nào phù hợp với chứng bệnh của mình một cách
tương đối chính xác đáng tin cậy hơn. Nhưng trước hết chúng ta phải biết triệu
chứng bệnh như thế nào mới gọi là bệnh tiểu đường, bệnh đang ở giai đoạn nào,
và nguyên nhân tại sao gây ra bệnh tiểu đường theo cách nhìn tổng hợp của đông
tây y :
I- DẤU HIỆU CỦA NGƯỜI SẮP BỊ BỆNH TIỂU ĐƯỜNG.
Bệnh tiểu đường là một loại bệnh thuộc về dinh dưỡng
thường gặp ở lứa tuổi 40 trở lên, đông y gọi là bệnh Tiêu khát và Đái tháo đường.
Dấu hiệu ở đàn ông, tự nhiên mập phì ở vai, cổ và ngực.
Dấu hiệu ở phụ nữ tự nhiên béo phì ở háng, đùi, hoặc
béo phì ở mặt, cổ và trên thân mình có vết rạn da mầu tía kèm theo huyết áp
cao.
A- NGUYÊN NHÂN :
1- Ăn nhiều chất ngọt, kẹo, bánh mứt, chocolat, trái
cây đóng hộp, rượu, nước ngọt, thói quen uống nước nhiều.. tất cả những yếu tố
trên làm tăng cân, nhưng ít vận động chân tay để chuyển hóa năng lượng dư thừa
của cơ thể.
2- Do chấn thương sọ não, do đụng chạm tổn thương tủy sống,
do thời kỳ thai nghén ăn dư thừa chất bột, chất đường, chất béo.
3- Do biến chứng của bệnh quai bị, thương hàn, bệnh
lao.
4- Do xáo trộn tuyến nội tiết như bệnh cường giáp làm
tăng calci gây ra bướu cổ.
5- Do bệnh ở tụy tạng thuộc tỳ không thu nạp chất ngọt
được.
6- Do xáo trộn sự chuyển hóa của gan, trong gan có nhiều
độc tố như rượu, cà phê, thuốc lá, cholesterol, làm gan tăng chuyển hóa đường
vào máu dư thừa.
7- Do tăng đường huyết nguyên nhân do tăng tiết hormone
glucocorticoid của vỏ tuyến thượng thận thuộc hội chứng Cushing có dấu hiệu
loãng xương, mệt mỏi, teo cơ, rậm lông ở mặt.
8- Do lạm dụng thuốc corticoid, ACTH, và thuốc lợi tiểu.
B- TRIỆU CHỨNG chung :
Khi bệnh còn nhẹ, cơ thể bình thường không có triệu chứng
gì khó chịu, chỉ khi nào thử máu và nước tiểu lúc đó mới biết mình có bệnh tiểu
đường.
Cơ thể lúc đói, bình thường lượng đường trong máu từ
0,8 -1,0 gram/lít. Khi bị bệnh, đường trong máu sẽ có từ 1,5-3,0 gram/lít và đường
trong nước tiểu từ vài gram đến 100 gram/lít.
Trường hợp không phát giác kịp để điều chỉnh lại vấn đề
ăn uống, bệnh sẽ tiến triển và hiện rõ những dấu hiệu đông y gọi là BA NHIỀU :
Khát nước uống nhiều, ăn nhiều, tiểu nhiều.
Khát, uống nhiều : Người bị bệnh tiểu đường cảm thấy
khô họng khát nước, cơ thể bắt phải uống nước rất nhiều trong ngày .
Ăn nhiều : Ăn rất nhiều mà cơ thể cứ suy yếu dần đến gầy
ốm, sức khỏe yếu, tình dục yếu kém.
Tiểu nhiều : Tiểu ra từ 2 đến 10 lít nước tiểu mỗi
ngày, khi tiểu nước tiểu nổi bọt lâu tan nhất là lần tiểu đầu trong ngày vào buổi
sáng ,bọt nổi lên sau hơn nửa giờ mới tan. Khi bệnh nặng hơn thì số lượng nước
tiểu ra nhiều hơn số lượng nước uống vào làm cơ thể suy nhược gầy ốm do mất nước.
C- BIẾN CHỨNG :
Bệnh tiểu đường có thể sẽ kèm theo những biến chứng hại
đến chức năng của thận như bị ngứa vùng cơ quan sinh dục, nếu hại đến chức năng
của gan sẽ làm mờ mắt, đau võng mạc, mắt kéo mây, mắt cườm, glocôme, nếu hại đến
chức năng của phế sẽ dễ bị nhiễm trùng ngoài da gây mụn nhọt, lở loét, khi da bị
trầy xước, hoặc phỏng sẽ lâu lành, nếu hại đến chức năng tuần hoàn huyết thuộc
tâm và tâm bào sẽ làm tăng áp huyết, nếu hại đến chức năng thần kinh thì da thịt
cảm thấy có nơi đau nhức hoặc tê mất cảm giác hoặc bại liệt khó vận động.
II- PHÂN LOẠI BỆNH CHỨNG :
A. BỆNH CHỨNG CHUNG KHI MỚI PHÁT :
Đầu nặng, lừ đừ, mệt mỏi, muốn ngủ, nóng nhức trong đầu
óc, da khô sần lở ngứa, khát nước, mau đói, họng khô do táo khí của phế bị kết
nhiệt lâu ngày.
Đông y phân loại bệnh chứng diễn tiến phản ảnh qua hệ
tam tiêu theo đường kinh của các tạng phủ thành 3 giai đoạn tiến triển của bệnh
có liên quan đến bệnh tiêu khát và đái tháo đường.
B. BỆNH Ở THƯỢNG TIÊU :
Trước hết khi bệnh còn ở thượng tiêu có dấu hiệu lưỡi
khô nứt rát làm cho bị khát phải uống nhiều nước mà không đã khát.
Gốc của bệnh tiểu đường do chức năng gan có nhiệt tà
sinh phong hỏa xung lên tim làm tim nóng và đau, tâm thuộc hỏa gặp phong hỏa hại
phế kim làm khô kiệt tân dịch trong phổi, nên kim không sinh thủy khiến cơ thể
nóng phát nhiệt, môi ,lưỡi, miệng và da khô nóng phải tự động cầu cứu nước uống
bên ngoài giúp thận đủ thủy để ức chế hỏa của tâm, nhưng uống vào bao nhiêu
cũng không đủ để ức chế hỏa mà ngược lại còn bị hỏa vượng đốt cháy hết, đông y
gọi là chứng Tâm hỏa khắc phế kim, cho nên phổi càng khô ( táo càng thêm táo )
vì vậy uống hoài vẫn thấy khát mới gọi là bệnh tiêu khát.
C. BỆNH Ở TRUNG TIÊU :
Có dấu hiệu mau đói, ăn rất nhiều, da thịt vẫn teo gầy,
ra mồ hôi, đại tiện khô, tiểu nhiều do khí hóa của tỳ không hấp thụ.
Nguyên nhân do tâm hỏa bị nhiệt đốt truyền xuống vị thổ
làm bao tử nóng khô cứng như đất nung, thức ăn vào bao tử bị đốt cháy tiêu hóa
nhanh không biến thành chất bổ nên mau đói, khi bệnh còn ở trung tiêu thì ăn
nhiều mà vẫn ốm, bao tử cứng bên trong và hay đi tiểu nhiều lần, mỗi lần ra từng
tí một.
D.BỆNH Ở HẠ TIÊU :
Có dấu hiệu nóng sốt trong người, thèm nước, uống nhiều,
vành tai khô nứt, tiểu ra chất đục như mỡ, bắp chân teo, đi đứng nặng nề do thận
dương ( chức năng thận ) không chuyển hóa, nguyên nhân do thận thủy hư bởi mẹ
là phế kim đang bị tâm hỏa thiêu đốt, phổi khô nóng nên không sinh thủy để nuôi
thận, do đó thận thủy không đủ sức ức chế hỏa, phải tự động uống nước bên ngoài
vào, nhưng hỏa tà làm tâm hư không giao hỏa xuống mệnh môn tam tiêu để hóa thủy
khí cho nên nước uống vào bị đẩy hết xuống ra ngoài theo bàng quang. Khi bệnh ở
hạ tiêu còn nhẹ thì uống vào bao nhiêu nước tiểu ra bấy nhiêu, nước theo tỷ lệ
uống vào một tiểu ra một. Khi bệnh nặng uống vào một tiểu ra hai, nghĩa là nó
rút thêm nước dự trữ trong cơ thể theo ra luôn làm cho cơ thể mất trọng lượng gầy
ốm dần cho đến kiệt sức .
E. PHÂN LOẠI BỆNH TIỂU ĐƯỜNG THEO CHỨNG :
a-Chứng nhiệt thịnh nội táo :
Dấu hiệu lâm sàng :
Miệng khát, uống nhiều, ăn nhiều mau đói, người vẫn ốm,
tiểu nhiều, nước tiểu vàng, sắc lưỡi đỏ, mạch sác ( nhiệt ).
Đối chứng trị liệu :
Phải tư âm thanh nhiệt, trong bài thuốc phải có những vị
như Sinh địa, Mạch môn đông, Hoa phấn là chính.
b-Chứng khí âm lưỡng hư :
Dấu hiệu lâm sàng :
Miệng khát, uống nhiều, tiểu nhiều, người gầy ốm, đại
tiện khi bón khi tiêu chảy, sắc lưỡi nhạt, mạch tế sác.
Đối chứng trị liệu :
Phải ích khí dưỡng âm, trong bài thuốc phải có những vị
như Hoàng kỳ, Hoài sơn, Sinh địa, Ngũ vị tử, Thiên hoa phấn là chính.
c-Chứng can thận âm hư :
Dấu hiệu lâm sàng :
Đi tiểu nhiều lần, lượng nước nhiều, đầu váng, hoa mắt,
nhức mỏi lưng gối, nam di tinh, nữ kinh nguyệt không đều, sắc lưỡi đỏ nhạt, mạch
tế sác.
Đối chứng trị liệu :
Phải tư bổ can thận, giảm tiểu tiện, trong bài thuốc phải
có những vị như Thục địa, Hoài sơn, Kỷ tử, Ngũ vị tử là chính.
d-Chứng âm dương lưỡng hư :
Dấu hiệu lâm sàng :
Bệnh đã lâu ngày chưa khỏi khiến đi tiểu nhiều lần, ra
nhiều, họng khô, lưỡi khô, chân tay lạnh, sợ lạnh, yếu sinh lý, mạch tế vô lực
.
Đối chứng trị liệu :
Phải ôn dương, tư âm bổ thận, trong bài thuốc phải có
những vị như Hoàng kỳ, Thục địa, Hoài sơn, Sơn thù là chính.
III . ĐIỀU DƯỠNG :
Biết cách nghỉ ngơi và chọn lựa những thứ ăn uống đúng
theo nhu cầu cơ thể cần cho mỗi giai đọan đang bị bệnh.
A. NGHỈ NGƠI :
Phải nghỉ ngơi ở nơi thoáng khí mát mẻ tinh sạch, tắm
mát mỗi ngày, ăn uống chừng mực.
B. Điều chỉnh bằng ĂN UỐNG để phòng bệnh :
Khi có dấu hiệu bệnh ở thượng tiêu nên ăn hoặc uống mướp
đắng, rau má, bình bát, bù ngót, lá sen. .
Khi có dấu hiệu bệnh ở trung tiêu nên nấu củ khoai mài
( hoài sơn ) với hột sen,ăn để tăng tính hấp thụ đường của tỳ để nuôi cơ bắp
làm giảm lượng đường trong máu và trong nước tiểu.
Khi có dấu hiệu bệnh ở hạ tiêu nên nấu nước đậu đen và
rễ qua lâu (rễ qủa dưa núi còn gọi là Thiên hoa phấn hay qua lâu căn ).
IV. NHỮNG MÓN ĂN THAY THUỐC PHÒNG VÀ CHỮA BỆNH TIỂU ĐƯỜNG
:
A- Phòng bệnh bằng nước uống :
1-Phòng bệnh và chữa bệnh bằng mướp đắng :
a-Ngày dùng 1-2 qủa mướp đắng còn xanh bỏ hạt nấu chín,
ăn cái uống nước mỗi ngày.
b-Mướp đắng phơi khô tán bột :
Chữa bệnh đái tháo đường do bao tử nhiệt, huyết áp cao,
không phụ thuộc insulin :
Dùng qủa mướp đắng còn xanh thái mỏng phơi khô, tán bột.
Mỗi ngày uống 12-20g chia làm 2-3 lần uống sau bữa ăn với nước.ấm.
Chỉ có lợi cho người bị bệnh tiểu đường có thân nhiệt
cao, người nóng, cổ khô khát, áp huyết cao, bệnh thuộc thực nhiệt. Người bị thực
chứng khi dùng nó một thời gian thấy khoẻ, lượng đường và áp huyết ổn định thì
ngưng, nếu uống tiếp bệnh trở thành hư chứng làm cơ thể suy nhược thêm.
Chống chỉ định :
Không có lợi cho người bị bệnh tiểu đường thuộc hư nhiệt,
hư chứng, tim suy, người lạnh, áp huyết không cao, nếu dùng nó lượng đường và
thân nhiệt xuống thấp làm cho người yếu sức, chân tay bủn rủn, chóng mặt, biếng
ăn, mệt tim.
Phân tích công dụng của Mướp đắng theo tây y :
Mướp đắng hay khổ qua có tên là Momordica charantia L.
có chứa các glucoside triterpenic, các chất hạ đường huyết, các protein, các
acid amine, các lipid, các sắc tố, các vitamine B1,B2, PP, E, Béta caroten, các
chất khoáng Ca, Mg, Cu, Fe, Zn, các hợp chất lectin..
Khi thử nghiệm cho chuột trắng uống đường glucose 45
phút trước khi cho uống dịch ép qủa mướp đắng rồi đo lại lượng glucose trong
máu thấy giảm. Nó làm đường huyết giảm và làm tăng tính hấp thụ dung nạp
glucose mà không phụ thuộc insulin được điều trị hoặc phụ thuộc vào sự hấp thụ
glucose qua ruột và có liên quan đến tác dụng ngoài tụy tạng ( tỳ ).
Phân tích theo đông y :
Qủa và lá mướp đắng có vị đắng, tính hàn ( lạnh mát), hạt
có vị đắng ngọt, tính ấm, có tác dụng thanh nhiệt, nhuận trường, bổ thận, giảm
tiêu khát, lợi tiểu.
Quả mướp đắng dùng làm thuốc mát, chữa hạ sốt, đái buốt
ra ít một, bệnh phù thủng do gan nhiệt. Quả mướp nấu nước tắm trừ rôm sẩy cho
trẻ em.
Lá mướp đắng khô 12g tán bột hòa với nước dùng làm thuốc
uống kết hợp với lá tươi giã nát đắp trên nhọt sưng tấy nhiễm độc.
Hoa mướp đắng phơi khô tán bột uống chữa đau bao tử nhiệt,
loét.
Nước ép của lá liều cao có độc dùng để gây nôn, trị
giun sán, hoặc đắp vào chỗ vết rắn cắn.
Chất đắng vào tim, tính hàn của mướp khắc chế tâm hỏa
tà nên hỏa tà không hại được phế kim, lúc đó phế khí sẽ phục hồi làm chứng khô
cổ khát nước không còn nữa, khi phế kim mạnh sẽ sinh thủy giao xuống thận để
nuôi thận. Thận đầy đủ thủy sẽ khí hóa thành thủy khí qua mệnh môn tam tiêu lên
tâm để khắc chế tà nhiệt trong tim và phục hồi sự khí hóa thủy hỏa được quân
bình. Tính dược của mướp đắng còn điều hòa tỳ vị làm tiêu chất cứng khô nóng ở
bao tử, làm hết khát nước, trị vọp bẻ khi thổ tả, trừ thấp nhiệt, tiêu sưng
phù, ngăn tiêu chảy và trợ tỳ hấp thụ được chất ngọt. Khi bị bệnh tiểu đường
thì tỳ hư không hấp thụ và chuyển hóa được chất đường, nên chất đường cứ trôi
theo trong máu khiến máu tăng nồng độ khi đường lên men làm tâm thêm nhiệt tà
truyền xuống thận theo hệ tam tiêu nên lượng đường cũng có trong nước tiểu,
trong khi đó tạng tỳ không chuyển đường để nuôi cơ bắp và da thịt, khiến cơ thể
mệt mỏi, da thịt teo gầy, cho nên mướp đắng là vị thuốc trị tiểu đường rất công
hiệu tả tà nhiệt ở tâm làm hết tiêu khát, giúp tạng tỳ tăng tính hấp thụ chất
ngọt.
2- Phòng bệnh và chữa bệnh bằng rau má :
Dùng 30-40g rau má tươi luộc ăn như rau, hoặc nhai sống
vớI ít muối, hoặc giã vắt lọc lấy nước uống, hay trộn với dầu dấm ăn như rau trộn.
Phân tích công dụng của Rau má theo tây y :
Rau má có tên khác là liên tiền thảo, tên khoa học là
Centella asiatica (L.) Urban có chứa triterpen, tinh dầu, các hợp chất
polyacetylen, flavonoid, steroid, dầu béo, acid amine..
Phân tích theo đông y :
Rau má có vị đắng hơi ngọt, mùi thơm, tính mát dùng để
thanh nhiệt, giải độc, sát trùng, cầm máu, tiêu viêm, lợi tiểu, nhuận gan.
Công dụng dùng chữa sốt, mụn độc, bệnh gan vàng da, thổ
huyết, chảy máu cam, táo bón, tiểu rắt buốt, khí hư bạch đái, mất sữa, chữa
phong lao, cảm mạo đau đầu, amygdale, mắt đỏ, đau răng đau gan do siêu vi,
eczema, mẩn ngứa, ho gà, uống nước rau má dùng làm giải khát, đắp lá rau má giã
nát để cầm máu, chữa vết thương, bong gân gẫy xương.
3-Phòng và chữa bệnh bằng bình bát :
Qủa xanh thái mỏng phơi khô, sắc 8-12g uống như trà.
Phân tích công dụng của Bình bát theo tây y :
Bình bát có tên khác là đào tiên, tên khoa học là
Annona reticulate L.
Hạt có chứa nhiều chất acetogenin reticulatain,
squamocin có độc tính với côn trùng.
Lá có chất acetogenin annoreticuin.
Vỏ thân vỏ rễ có các alkaloid anomontin có độc tính đối
với tế bào.
Rễ có các alkaloid acqualin, acid kaur 16-en-19 oic có
tác dụng kháng khuẩn chữa lỵ và nhiễm khuẩn hô hấp. Hai acetogenin mới là
annoreticuin và isoannoreticuin có tác dụng giết tế bào ung thư phổi, ung thư kết
tràng ở người và ung thư bạch cầu dòng lympho ở chuột trắng..
Phân tích theo đông y :
Toàn cây bình bát có vị chát, có độc ở hạt và vỏ thân để
sát trùng. Qủa bình bát chín ăn được, vị hơi chát, ít ngọt, không thơm. Qủa
xanh chữa nóng sốt, tiêu chảy, kiết lỵ, giun sán, sát khuẩn đường hô hấp, nhưng
độc gây dị ứng ngoài da, giải độc bằng dịch qủa chanh, nên bình bát thường dùng
rễ.
4-Phòng và chữa bệnh bằng trà ngó sen tươi :
Dùng 200g ngó sen rửa sạch, giã lọc lấy 150g nước, đun
sôi uống thay trà, ngày 3 lần.
5-Phòng và chữa bệnh bằng trà gương sen khô :
Dùng gương sen khô 50g sắc nhỏ như trà khô, nấu với nửa
lít nước cho sôi , uống thay trà, ngày 3 lần.
Phân tích công dụng của Sen theo tây y :
Sen có tên khác là liên, tên khoa học là Nelumbo
nucifera Gaertn.
Tâm sen có chất liensinin làm hạ áp huyết và một loại
alkaloid khác không kết tinh chuyển liensinin dưới dạng amoni bậc 4 có tác dụng
hạ áp huyết kéo dài lâu hơn, chống kích động loạn thần kinh gây hung dữ tương
đương với amineazin trong điều trị tâm thần phân liệt mà không có độc tố như
thuốc amineazin, tâm sen cũng có tác dụng an thần nhưng yếu hơn tác dụng của lá
sen. Nhị sen có tác dụng ức chế tụ cầu vàng.
Lá sen có chất nuciferin tác dụng ức chế thần kinh
trung ương chống viêm, giảm đau, ho, an thần, kéo dài giấc ngủ, tăng thành phần
sóng chậm delta, giảm thành phần sóng nhanh béta, tăng trương lực cơ, giải co
thắt cơ trơn, ức chế loạn nhịp tim gây ra bởi calci clorid vì nó làm tăng ngưỡng
kích thích tâm trương và tăng giai đoạn trơ của cơ tâm nhĩ và tâm thất, chống
choáng, chữa chảy máu như đại tiểu tiện ra máu, xuất huyết dưới da, chân răng
chảy máu.
Phân tích theo đông y :
Tâm sen gọi là liên tâm, có vị đắng, tính lạnh, vào
kinh tâm, có tác dụng thanh tâm hỏa, điều nhiệt, chữa tâm phiền muộn người hâm
hấp khó chịu, ít ngủ, khát, thổ huyết.
Lá sen gọi là liên diệp có vị đắng, tính mát vào 3 kinh
can tỳ vị làm thanh thử lợi thấp, chữa tức ngực nóng sốt, tán ứ, chỉ huyết.
Hạt sen gọi là liên nhục, gương sen đã lấy quả là liên
phòng, Hạt sen trắng (quả sen bóc bỏ vỏ là liên thạch) có vị ngọt, tính bình,
vào 3 kinh tâm tỳ thận, có tác dụng bổ tỳ hư kém ăn, dưỡng tâm trị mất ngủ hồi
hộp, cố tinh, chữa di mộng tinh, sáp trường (làm chặt ruột ) chữa khí hư đi kiết
lỵ.
Hoa sen có vị ngọt đắng, tính ấm làm an thần và cầm
máu.
Tua sen bỏ hạt gạo ở đầu gọi là liên tu vị chát, tính ấm,
vào 2 kinh tâm-thận, có tác dụng cố tinh, ích thận chữa di mộng tinh, thanh tâm
trị mất ngủ, chỉ huyết cầm máu khi làm băng, thổ huyết.
Gương sen và ngó sen hay thân rễ là liên ngẫu, có vị đắng
chát, tính mát, tác dụng như thuốc ngủ và lợi tiểu, thu liễm, cầm máu khi đại
tiểu tiện ra máu, tử cung xuất huyết, bạch đới, chảy máu cam..
6-Nước trà đậu đen, rễ qua lâu :
Đậu đen, Rễ qua lâu mỗi thứ 1 lạng, nấu uống như nước
trà mỗi ngày làm tăng chức năng thận giúp thận dương chuyển hóa.
Phân tích công dụng của Đậu đen theo tây y :
Đậu đen có tên khoa học Vigna cylindrica (L.)Skeels, chứa
24,40% protein, 1,70% lipid, 53,30% glucid, 4% cellulose. Trong 100g đậu có
5mcg Vit.A, 0,5mg Vit.B1, 0,21 mg Vit.B2, 1,8mg Vit.PP, 8mg Vit.C, 970mg
lysine, 310mg tryptophan, 1160mg phenylalanine, 56mg Ca, 354mg P, 6 mg Fe.. Nó
có tác dụng chống oxy hóa ở mức độ vừa phải, lợi tiểu.
Phân tích theo đông y :
Đậu đen có vị ngọt nhạt, tính bình mát, bổ gan thận, bổ
huyết trừ phong, thanh thấp nhiệt, hạ khí, lợi tiểu, giải độc, tiêu khát.
Phân tích công dụng của rễ Qua lâu theo tây y :
Thiên hoa phấn hay Qua lâu còn gọi là dưa trời, dưa
núi, tên khoa học Trichosanthes kirilowi Maxim. Rễ tán bột dùng ngoài trị
eczema, nước hãm rễ qua lâu rửa vết thương. Trong rễ qua lâu có chứa các
protein như Karasurin A,B,C, có tính kềm mạnh dễ làm sẩy thai, trichosanthin và
TAP-29 có hoạt tính chống u bướu, virus kể cả HIV (Nghiên cứu của Thorup John E
CA,1996), các polysaccharide gồm glycose, galactose, fructose, manose, xylose
làm hạ đường huyết và chống tăng đường trong máu.
Phân tích theo đông y :
Qua lâu có vị ngọt đắng tính mát, vào hai kinh phế vị,
tác dụng thanh phế nhiệt, hóa đàm, nhuận phế, hoạt trường. Rễ qua lâu có vị ngọt
chua, tính mát, giáng hỏa sinh tân dịch, lợi sữa, chữa nhiệt bệnh, tiêu khát,
vàng da, đau vú, trĩ dò, lở ngứa, sưng tấy.
7- Uống nước sắc bông ổi (cứt lợn) uống thay trà.
Dùng toàn cây bông ổi bỏ rễ lấy 40g , Có thể nấu chung
với hoài sơn, rễ qua lâu , mỗi thứ 10g, sắc uống thay trà.
Phân tích công dụng của Bông ổi theo đông tây y :
Tên khoa học Lantana camara L. chứa các hợp chất
triterpen, acid, tinh dầu.. Lá hơi có độc, có mùi hôi, tính mát, tác dụng kháng
khuẩn, chống sốt rét, hạ sốt, tiêu sưng, nhưng có chứa triterpenoid pentacyclic
gây ứ mật hại cho gan, sẽ có triệu chứng chán ăn, táo bón, vàng da, nhậy cảm với
ánh sáng. Hoa có vị ngọt nhạt, tính mát có tác dụng cầm máu, tiểu đường. Rễ có
vị ngọt dịu, đắng, tính mát có tác dụng hạ sốt, giải độc, tiêu độc, giảm đau.
8-Nước Cây tầm phỏng tươi.
Dùng 60g.cây tươi. Sắc uống mỗi ngày.
Phân tích công dụng Cây tầm phỏng theo đông tây y :
Tên khoa học Cardiospermum halicacabum L., tên khác là
xoan leo, phong thuyền cát, có vị đắng hơi cay, tính mát, có tác dụng giảm đau,
tiêu sưng, thủng, lương huyết, giải độc, mau làm lành vết thương. Rễ làm ra mồ
hôi, lợi tiểu, khai vị, nhuận trường, chữa viêm đường niệu, phù thận, thấp khớp,
tiểu đường.
9-Trà Hạt qủa vối rừng phơi khô, tán bột.
Dùng 50g hạt qủa vối rừng phơi khô, tán bột, hãm nước
sôi uống thay trà.
Phân tích công dụng của Hạt qủa vối rừng theo đông tây
y :
Tên khoa học Syzygium cuminii (L.) Skeels, tên khác là
hậu phác nam, chứa các flavonoid chữa tiểu đường, dùng lá khô sắc theo tỷ lệ
2,5g trong 1 lít nước. Lá vối rừng vị cay, đắng, the, tính ấm, vào 2 kinh tỳ vị
làm lợI tỳ, tiêu thực lợi tiêu hóa, khử ứ trệ, táo thấp, làm long đờm suyễn, bổ
phế, cầm ho suyễn, thông trung tiện. Lá vối rừng nấu nước uống như lá vối, mỗi
ngày dùng 8-10g. Qủa vối rừng được bán ở chợ như một loại trái cây,ăn ngon như
qủa roi ( mận ).
10- Nhân sâm, Rễ qua lâu, tán bột :
Bài thuốc chữa tiểu đường, thiếu khí, mất ngủ : MỗI thứ
3 chỉ, nghiền thành bột. Uống mỗi ngày như trà.
Phân tích công dụng của Nhân sâm theo tây y :
Tên khoa học Panax ginseng C.A.Mey. tăng cường qúa
trình hưng phấn của vỏ đại não, kháng mệt mỏi, cải thiện giấc ngủ rõ rệt, tăng
sức đề kháng chống độc của cơ thể như bị nhiễm chiếu xạ, nhiễm virus, cấy ghép
ung thư, nhiễm độc rượu, carbon, thiếu oxy, sốc điện hoặc cử động bị gò bó,
thúc đẩy tuyến thượng thận tiết hormone corticosteron thúc đẩy qúa trình phân hủy
đường, tăng cường chuyển hóa năng lượng có tác dụng làm tăng hàm lượng
erythropoietin trong tủy sống, thúc đẩy qúa trình tổng hợp acid mucleic,
protein trong tế bào gan, tinh hoàn, tủy xương và tổng hợp albumin trong huyết
thanh.
Phân tích theo đông y :
Nhân sâm vị ngọt, hơi đắng, tính ôn vào các kinh tỳ, phế,
tâm, có tác dụng đại bổ nguyên khí ngũ tạng, phục mạch cố thoát, sinh tân, an
thần, trừ tà khí, minh mục, khai tâm ích trí, tăng thể lực trí lực, trị thở
khó, ho hen, tim đập hồi hộp, tổn thương tân dịch, miệng khát, đái đường, suy
nhược cơ thể, mất máu, tỳ hư tiết tả.
11-Phá cố chỉ, Tiểu hồi tán bột :
Chữa biến chứng tỳ thận suy, tiểu nhiều của bệnh tiểu
đường :
Phá cố chỉ ngâm rượu sao, Tiểu hồi sao mỗi vị 100g, tán
bột làm viên, mỗi ngàu uống 5g, ngày hai lần.
Phân tích công dụng của Phá cố chỉ theo tây y :
Tên khoa học Psoralea corylifolia L.,trong hạt chứa hợp
chất flavonoid chống kết tập tiểu cầu, hoạt chất bakuchiol chống u bướu, có hỗn
hợp psoralen và isopsoralen chữa bệnh bạch biến không do giang mai, các nguyên
bào sắc tố đen được kích thích làm cho da trở nên hồng hào.
Phân tích theo đông y :
Phá cố chỉ vị cay, đắng, mùi thơm hắc, tính nóng vào 3
kinh tỳ, thận, tâm bào có tác dụng bổ mệnh môn hỏa, nạp thận khí, chữa đau
lưng, tỳ thận hư, mỏi gối, tiểu tiện nhiều, khí hư, hoạt tinh, liệt dương, thuốc
bổ cho người già, chữa được bệnh lang ben có nguồn gốc giang mai giúp da trở
nên hồng hào. Hạt phá cố chỉ dùng làm thuốc nhuận trường, kích dục, trừ giun, lợi
tiểu, cho xuất mồ hôi khi bị sốt, chữa thiếu máu do thiểu năng tạo máu của tủy
xương. Bột nhão làm thuốc bôi da chữa viêm da, bạch biến, vẩy nến.
Chống chỉ định :
Người âm hư hỏa vượng, tiểu ra máu, đại tiện táo bón
không nên dùng.
Phân tích công dụng của Tiểu hồi theo tây y :
Tên khoa học Foeniculum vulgare Mill. chứa các
glucoside, acid petroselinic làm giảm cholesterol trong máu, chống co thắt, giảm
áp huyết nhẹ, có độ hòa tan cao trong lipid ức chế dòng Ca2+ đi vào và dự phòng
sự tăng độ thấm của Na+ và phong bế dẫn truyền thần kinh, trợ tim.
Phân tích theo đông y :
Tiểu hồi có vị cay, mùi thơm, tính ấm, vào 4 kinh phế,
thận, tỳ, vị, tác dụng lý khí, khử hàn, đau đầy bụng, ăn không tiêu, nôn mửa,
tiêu chảy, đau lưng do thận suy, ngộ độc thức ăn.
Chống chỉ định :
Âm hư hỏa vượng không dùng được.
12- Rễ tầm xuân
Chữa đái tháo đường, khát uống nhiều, đái dắt nhiều lần,
đái dầm : Dùng 20-30g rễ khô sắc uống thay trà trong
ngày.
Phân tích công dụng của Rễ tầm xuân theo tây y :
Tên khoa học Rosa multiflora Thumb. còn có tên là hoa hồng
dại, dã tường vi.. Qủa chứa multiflorin A,B và dầu béo, có vị chua, tính bình,
thanh nhiệt, hoạt huyết, lợi thủy, giải độc, dùng làm thuốc nhuận trường, lợi
tiểu mạnh, chữa phong thấp nhức mỏi, hành kinh đau bụng, kinh nguyệt không đều,
lá giã để đắp vết thương lở loét, bong gân. Hoa chứa astragalin, lá chứa Vit.C,
Chất multiflorin gây tiêu chảy, làm hạ lipid huyết, cholesterol, ức chế hiện tượng
ngưng tập tiểu cầu do ADP, chống viêm, giảm đau.
Phân tích theo đông y :
Lá có vị đắng chát, tính hàn, thanh nhiệt, hóa trọc, thuận
khí, hòa vị, chữa ho, nóng ngực, tâm phiền, miệng khát.
Rễ có vị đắng chát, tính mát dùng để thanh nhiệt, giải
độc, lợi thấp, khu phong, hoạt lạc, chữa bệnh chảy máu mũi, bệnh tiêu khát đái
tháo đường, tiểu nhiều của người già.
13- Dùng dịch ép hành tây :
Làm giảm đường huyết, áp huyết cao, vàng da :
Dùng nửa củ hành tây ép lấy nước, mỗi sáng uống l muổng
với nước pha loãng.
Phân tích công dụng của Hành tây theo tây y :
Tên khoa học Allium cepa L. Trong 100g hành tây có 88g
nước, 1.8g protid, 8.3g glucid, 0.1g chất xơ, 0.8g chất tro, 38 mg Calci, 58mg
phosphor, 0.8mg sắt, 0.03 mg carotene, 0.03mg Vitamine B1, 0.04mg B2, 0.2mg PP,
10mg Vit.C, các muối khoáng khác như Na, K, S,I,Si., H3PO3.. ngoài ra còn các
hoạt chất khác như methyl disulfid. Allyl monosulfid, các acid amine, vỏ ngoài
có kaempferol , saponin.
Phân tích theo đông y :
Theo kinh nghiệm cổ truyền của nhiều nước, hành tây
ngoài việc dùng làm gia vị, còn dùng để chữa bệnh tẩy giun sán, tiêu chảy, kích
dục, điều kinh, long đờm, vết thương lở loét, sẹo, thâm tím, viêm phế quản, đau
bụng đầy hơi, đau tai, sốt, ho, nhức đầu, áp huyết cao, vàng da, tiểu đường.
14-Bạch thược, Cam thảo :
Chữa tiểu đường, háo khát, chân gối đau nhức, khó co duỗi,
đau bụng:
Bạch thược 8g, Cam thảo 4g, sắc hoặc tán bột uống chia
2 lần trong ngày.
Phân tích công dụng của Bạch thược theo tây y :
Tên khoa học Paeonia lactiflora Pall., tên khác là Mẫu
đơn trắng, chứa hoạt chất paeoniflorin, oxypaeoniflorin, albiflorin, benzoyol
paeoniflorin, hợp chất triterpen, flavonoid, có tác dụng kháng khuẩn, kích
thích co bóp, kháng cholin, giảm đau, điều kinh.
Phân tích theo đông y :
Bạch thược có vị đắng chua, hơi chát vào 3 kinh can tỳ
phế, chữa đau bụng, tả lỵ do ruột co bóp, lưng ngực đau, chân tay nhức mỏi, nhức
đầu, hoa mắt, viêm mạch huyết khối, tắc mạch máu não, kinh nguyệt không đều, bế
kinh, xích bạch đới, tiểu khó.
Phân tích công dụng của Cam thảo theo tây y :
Có hai loại mang tên khoa học Glycyrrhiza uralensis
Fisch. và G. glabra L. Chứa 4-6% chất vô cơ carbohydrat ( glucose và saccharose
), 3-5% manitol, tinh bột 25-30%, lipid 0,5-1%, asparagin 2-4%, nhựa 5%, có độ
ngọt gấp 60 lần saccharose, nếu phối hợp với mía độ ngọt có thể tăng gấp 100 lần.
Glycyrhizin gồm có 2 phân tử acid glucuronic và 1 phân tử acid glycyrhetic cấu
tạo gần giống như cortisone có nhiều đồng phân chữa được bệnh Addison, có tác dụng
chuyển hóa các chất điện giải, giữ natri và clorid trong cơ thể làm tăng áp huyết,
giúp sự bài tiết kali. Ở trong cây, glycyrhizin tồn tại ở dạng muối Ca và Mg.
Cam thảo có tác dụng gây trấn tĩnh, ức chế thần kinh trung ương, giảm thể nhiệt,
giảm hô hấp, giảm ho, giải co thắt cơ trơn, chữa loét đường tiêu hóa bao tử và
ruột, bảo vệ gan khi bị viêm gan, tăng tiết mật, chống dị ứng, giải độc mạnh đối
với độc tố của bạch cầu, của cá, của nọc rắn, của strychnine, của uốn ván, của
cocain và chlorat hydrate. Cam thảo dùng chung với cortisone làm giảm tác dụng
của cortisone.
Phân tích theo đông y :
Rễ cam thảo bắc vị ngọt, tính bình, để sống có tác dụng
giải độc, tả hỏa, chích cam thảo loại tẩm mật sao vàng có tác dụng ôn trung,
nhuận phế, điều hòa các vị thuốc. Riêng cam thảo chữa cảm ho, mất tiếng, viêm họng,
mụn nhọt, đau bao tử, ỉa chảy, ngộ độc. Chích cam thảo bổ tỳ vị hư nhược, ỉa lỏng,
thân thể mệt mỏi, kém ăn.
15-Cỏ bờm ngựa, Bạch qủa :
Chữa tiểu đường, viêm thận, thiếu máu não.
Cỏ bờm ngựa ( Kim ty thảo ) 60g, Bạch qủa 12 hạt. Sắc uống.
Phân tích công dụng của Cỏ bờm ngựa theo đông tây y :
Cỏ bờm ngựa có còn gọi là kim ty thảo vị ngọt, nhạt,
tính hơi mát, lợi thủy, thông lâm, thanh nhiệt, lương huyết, chữa nhiễm khuẩn
tiết niệu, viêm thận, thủy thủng, đái buốt, đái vàng, đái ra dưỡng trấp, tiểu
đường, viêm gan, hoàng đản, sốt, cảm mạo.
Phân tích Bạch qủa theo tây y :
Tên khoa học ginkgo biloba L. tên khác là Ngân hạnh, chứa
các flavonoid quercetin, kaempferol và isorhamnetin có tác dụng giãn mạch chống
co thắt do histamine và bari clorid gây ra, bảo vệ gan làm giảm peroxy hóa gốc
tự do-lipid gây ra bởi ciclosporin A, tác dụng chống oxy hóa của huyết tương
kéo dài thời gian, chống tổn thương mô não, khỏi thiếu máu cục bộ ở não và tim,
điều hòa lưu lượng máu não và tim, chữa phù não do các chất độc hại thần kinh,
tăng trí nhớ, cải thiện chức năng tiền đình và thính giác, giảm đau, ức chế các
vi khuẩn.
Cao bạch qủa tiêu chuẩn hóa với liều 120mg có tác dụng
giống như dihydroergotoxin với liều 4,5mg có tác dụng điều trị bệnh tắc mạch
ngoại biên làm đau, đi đứng khó khăn, chóng mặt ù tai, điếc, sa sút trí tuệ.
Phân tích theo đông y :
Trong y học dân gian, Bạch qủa dùng trị giun, thúc đẻ,
viêm phế quản, viêm mũi mạn tính, cước khí, viêm khớp và phù chân tay, xanh tím
đầu chi do viêm tĩnh mạch.
16- Dùng quả chuối hột còn xanh :
Chữa tiểu đường, mờ mắt, táo bón, cao áp huyết, sạn thận
:
Dùng qủa chuối hột còn xanh 30g sắc uống hằng ngày.
Phân tích công dụng của Chuối hột theo đông tây y :
Tên khoa học Musa brachycarpa Back. Tên khác là chuối
chát, để chữa sạn thận, bàng quang, dùng 30-50g quả chuốt chát thái mỏng sao
vàng hạ thổ rồi sắc 4 chén còn 1 chén uống mỗi ngày, hoặc hãm nước sôi uống như
trà mỗi ngày thờì gian 1 tháng có kết quả vừa có tác dụng giải độc, kích thích
tiêu hóa. Nước tiết ra từ thân cây chuối hột chữa tiểu đường, quả chuối hột chữa
tiểu đường, viêm thận, cao áp huyết.
17-Rau bợ nước, Rễ qua lâu :
Chữa tiểu đường, tiêu khát :
Rau bợ nước, Rễ Qua lâu, mỗI vị 15g, tán bột hoà với sữa
uống.
Phân tích công dụng của Rau bợ nước theo tây y :
Tên khoa học Marsilea quadrifolia L., tên khác là tứ diệp
thảo, chứa nước, protid, glucid, carotene, vit.C, cyclau, acid nucleicdenol có
tác dụng lợi tiểu làm tăng 20% lượng nước tiểu hơn bình thường.
Phân tích theo đông y :
Rau bợ nước có vị ngọt, hơi đắng, tính mát, thanh nhiệt,
lợi tiểu, tiêu sưng, giải độc, nhuận gan, sáng mắt, trấn tĩnh. Là loại rau ăn sống,
xào, luộc, nấu canh. Chữa được bệnh viêm phù thận, sạn thận, bàng quang, tiểu
ra máu, tiểu đường, sốt cao, viêm gan, viêm kết mạc, viêm lợi đau răng, nhọt
vú, tắc tia sữa, khí hư, bạch đới.
18-Sâm cuốn chiếu, Bạch qủa :
Chữa tiểu đường, tiêu khát :
Sâm cuốn chiếu, Bạch qủa mỗi thứ 30g. Sắc với 1 lá mía
heo.
Phân tích công dụng của Sâm cuốn chiếu theo đông tây y
Tên khoa học Spiranthes sinensis ( Pers.) Ames ,tên
khác là Bàn long sâm, chứa 6 hợp chất thuộc nhóm dihydrophenanthren đặt tên là
sinensol A-F. Có vị ngọt, nhạt, tính bình, để tư âm, dưỡng khí, lương huyết, giải
độc, nhuận phế, cầm ho, tiểu đường.
19-Cải xoong :
Dùng cải xà lách xoong trộn dầu dấm, hoặc uống nước ép
rau tươi.
Phân tích công dụng của Cải xoong theo tây y :
Còn gọi là xà lách xoong, tên khoa học Nasturtium
officinale R.Br., ngoài 93,7% nước còn có chứa các thành phần khác như protid,
glucid, cellulose, iod, Vit.C, A, Calci, mangan, natri, kali, sắt, kẽm,
magnesium, đồng, phosphore, có chất sulfat kali hydrogen có mùi vị đặc biệt để
chữa ho, có một loại sulfur là gluconasturtiosid ở dạng muối dễ bị thủy phân
thành glucose.
Phân tích theo đông y :
Là loại rau ăn sống hoặc nấu chín ăn để chữa bệnh, vị
hơi cay, tính mát để thanh huyết, giải độc. Cho nên cải xoong có tính kháng khuẩn
tăng bài niệu, trị ho, lao phổi, viêm phế quản mạn tính, khô họng, cảm lạnh bệnh
thiếu Vit.C, bệnh tiểu đường, bệnh ngoài da, đái són. Giã đắp bướu cổ, polyp ở
mũi. Uống nước ép rau tươi hay ăn rau trộn sống có kết qủa để chữa bệnh hơn là
nấu chín sẽ bị mất hoạt chất.
20-Cam thảo đất :
Mỗi ngày dùng 8-12g dược liệu khô của toàn cây cam
thảo đất, tên thương mại là thổ cam thảo, cam thảo nam,
nấu sắc uống như trà.
Phân tích công dụng của Cam thảo đất theo tây y :
Tên khoa học Scoparia dulcis L. trong có chứa hợp chất
Amellin giống như insulin chữa bệnh albumin niệu, ceton niệu, đường niệu, đường
huyết, nhưng nó làm giảm lượng đường trong máu và nước tiểu từ từ đến mức bình
thường và làm tăng hồng cầu. Nó cũng làm tăng mức dự trữ chất kềm bị hạ thấp ở
người đái tháo đường, làm giảm hàm lượng sắt trong huyết thanh cùng các chất tạo
ceton trong máu, tăng tính hấp thụ protein, giảm mỡ trong mô mỡ, chữa các biến
chứng khác của bệnh tiểu đường như làm lành các vết thương lở loét ngoài da lâu
lành, viêm võng mạc.
Phân tích theo đông y :
Có vị đắng ngọt, tính mát, bổ tỳ, nhuận phế, thanh nhiệt,
giải độc, giải khát, an thần.
21- Chua me lá me :
Dùng chua me lá me để nấu canh chua cá hay canh chua
rau muống.
Phân tích công dụng của Chua me theo đông tây y :
Tên khoa học Biophytum sensitivum (L.) DC.,toàn cây chứa
một loại muối oxalat kali, và một chất giống insulin để chữa tiểu đường.
Là loại rau dân gian dùng nó nấu canh ăn để chữa bệnh
tiểu đường, nó có vị chua, tính mát thanh nhiệt, lợi tiểu, tiêu viêm.
22-Trái nhàu :
Rễ thái nhỏ phơi khô sắc nước uống 10-20g thay trà, sau
15 ngày có kết qủa.
Phân tích theo tây y :
Tên khoa học Morinda citrifolia L. Vỏ rễ nhàu chứa
morindon dưới dạng glucoside. Rễ chứa acid rubicloric, alizarin alpha, methyl
ether..Qủa chứa ít tinh dầu có acid hexoic, octoic, paraffin và ester của
alcohol ethylic và méthylic. Nhàu có tác dụng hạ áp huyết, giãn mạch, đối kháng
với tác dụng gây tăng áp huyết do adrenalin, noradrenalin và làm mất tác dụng của
nicotin.
Phân tích theo đông y :
Qủa nhàu chín ăn với muối có tác dụng giúp tiêu hóa nhuận
trường, lợi tiểu, điều kinh, chữa sung huyết, trĩ, xuất huyết não. Nước ép từ qủa
chữa ho sốt, tiểu khó, đái đường, giun sán, kinh nguyệt không đều.
23-Trà cỏ ngọt :
Mỗi ngày uống 10g lá cỏ ngọt chia làm 4 lần trong ngày.
ở ngoài thị trường có bán sẵn gói trà cỏ ngọt.
Phân tích công dụng của Cỏ ngọt theo tây y :
Tên khoa học Stevia rebaudiana (Bertoni )Hemsley. Lá cỏ
ngọt chứa các ent-kauren diterpen glycoside như steviosid, rebaudiosid
A,B,C,D,E, dulcosid, steviobiosid, có các vị ngọt khác nhau, nhưng có độ ngọt
150-300 lần đường mía. Có tác dụng hạ đường huyết, glycogen gan giảm. Thí nghiệm
trên những người bị bệnh tiểu đường thấy glucose huyết giảm 35%, có tác dụng
thư giãn mạch, và mạch tiểu cầu thận, tăng bài niệu và tăng thải trừ natri. Nếu
người cao áp huyết,uống trà cỏ ngọt liên tiếp 30 ngày thấy áp huyết cả tâm
trương lẫn tâm thu giảm khoảng 9.5%.
Phân tích theo đông y :
Cỏ ngọt có vị ngọt rất đậm, chữa được bệnh tiểu đường,
có khả năng làm giảm nhu cầu chất ngọt và chất bột nên có tác dụng chữa bệnh
béo phì. đường ngọt trong cỏ ngọt hiện nay thay thế đường saccharose trong kỹ
nghệ làm bánh kẹo.
Chống chỉ định :
Không dùng cho trường hợp người gầy ốm suy nhược vì nó
phân hủy chất bột làm cho người gầy ốm suy nhược thêm.
24-Bồ công anh :
Phân tích công dụng của Bồ công anh theo tây y :
Có hai loại, loại có tên khoa học Lactuca indica L. còn
gọi là cây diếp dại, cây mũi mác. Chứa khoảng 90% nước, còn lại là protid,
glucid, xơ, tro, caroten , vit.C, chất đắng chính là lactucin và lactucopicrin,
beta amyrin, taraxasterol, germanicol. Có tác dụng ức chế men oxy hóa khử
peroxydase và catalase.
Loại khác tên khoa học Taraxacum dens-leonis Desf. Gọi
là bồ công anh thấp hay bồ công anh Trung quốc, chứa flavonoid toàn phần, nhựa,
tinh dầu, pectose, acid béo, sáp, có tác dụng kháng khuẩn, virus, virus bệnh đậu
bò, nấm, chống amip, tác dụng trên nhịp thở và biên độ hô hấp, chống tế bào ung
thư trên biểu mô mũi, thanh quản, ung thư bạch cầu dòng lympho, tế bào sarcom
180 và tế bào gây u gan, giảm glucose huyết.
Phân tích theo đông y :
Bồ công anh Lactuca có vị ngọt, hơi đắng, tính hàn để
giải nhiệt độc, tiêu viêm, thanh nhiệt, tán kết, điều trị tỳ vị uất hỏa, sưng
vú, áp xe, tràng nhạc, mụn nhọt.
Loại Bồ công anh thấp Taraxacum có vị ngọt, hơi đắng,
tính bình, hơi hàn, vào kinh tỳ vị, thanh nhiệt, giải độc, lương huyết, tiêu
ung, thông sữa lợi tiểu, ăn ngon, các loại bệnh về gan mật, các bệnh về tiêu
hóa, suy thận, sạn thận, cholesterol huyết, xơ vữa động mạch, bệnh ngoài da, thấp
khớp, thống phong, suy nhược thiếu máu..
Chống chỉ định :
Không dùng trong trường hợp âm hư, tràng nhạc hay ung
nhọt đã vỡ mủ.
25-Nước uống Thiên môn :
Mỗi ngày dùng 6-12g dây tóc tiên ( Thiên môn ) dưới dạng
thuốc sắc., uống như nước trà
Phân tích theo tây y :
Tên khoa học Asparagus cochinchinensis (Lour.) Merr.,
Hoạt chất chính là saponin steroid, sau khi thủy phân cho các đường glucose,
rhamnose và xylose. Rễ củ thiên môn chứa polysaccharide, các amine tự do như
asparagin. Thân và lá chứa rutin, glycoside. Các hoạt chất này có tác dụng
kháng khuẩn, ức chế men dihydrogenase của tế bào bệnh bạch cầu lympho cấp tính,
tế bào bệnh bạch cầu mạn tính và tế bào bệnh bạch cầu đơn nhân. Dịch chiết
thiên môn có tác dụng kích thích sự hoạt động của interferon.
Phân tích công dụng của Thiên môn theo đông y :
Tên khác là Thiên môn đông, dây tóc tiên, có vị ngọt, đắng,
tính đại hàn, vào các kinh phế thận, tư âm, nhuận táo, thanh phế, lợi tiểu,
sinh tân, hóa đờm tức ở phổi, chữa ung thư phổi, hư lao, ho, thổ huyết, nhiệt bệnh,
tiêu khát đái đường, tân dịch hao tổn, táo bón.
26-Nước sắc Kỷ tử :
Dùng 6-12g kỷ tử (hạt cây câu kỷ ) sắc nước uống như
trà mỗi ngày.
Đông y đánh giá Kỷ tử là loại thuốc bổ toàn thân, làm hạ
cholesterol, hạ đường huyết, hạ áp huyết, bảo vệ gan, làm chậm sự lão suy, dùng
cho cơ thể suy nhược, can thận âm suy, tinh huyết kém, thần kinh suy nhược, trí
nhớ kém, lưng gối mỏi đau, hoa mắt, thị lực giảm, di tinh, đái đường.
Chống chỉ định :
Khi có bệnh ngoại tà, thực nhiệt, tỳ hư, tiêu chảy thì
ngưng không được dùng.
27-Trà địa cốt bì :
Dùng 10-15g địa cốt bì (vỏ rễ cây câu kỷ )nấu 500cc nước
cạn còn 200cc, uống như trà mỗi ngày.
Tiệm thuốc bắc có bán bột địa cốt bì đóng thành gói sẵn
như gói trà, cho vào 2 ly nước hâm nóng 10 phút cho tan ngấm thuốc là uống được.
Dùng trong trường hợp hư lao triều nhiệt, ra mồ hôi trộm,
ho hen, nôn ra máu, chảy máu cam, tiểu ra máu, đái đường, cao áp huyết, mụn nhọt.
28-Trà tiêu khát địa cốt bì kỷ tử :
Nấu chung 20g địa cốt bì , 20g kỷ tử với 500cc nước cạn
còn 300cc, nước thuốc có vị hơi đắng ngọt dễ uống hơn.
Địa cốt bì và câu kỷ tử tuy cùng một cây là phần qủa và
phần rễ, nhưng địa cốt bì là vị thuốc đắng, hàn, thanh lý hư nhiệt trong gan thận,
ích tinh khí, trị thổ huyết, tiểu ra máu, đau đầu, đau bắp thịt. Câu kỷ tử thì
vị ngọt, tính bình, tuy thành phần đường cao nhưng lại làm hạ đường trong máu
và có nhiều chất bổ dưỡng giúp nhuận phế, dưỡng gan, bổ thận, sáng mắt. Kết hợp
lại thì chữa được chứng miệng khô khát, khát nước, nó làm cho sinh nước miếng
và làm cho chân tay hết mệt mỏi uể oải.
29-Nước sắc Hoàng kỳ :
Dùng 6-12g dạng sống hay 3-9g dạng chín, sắc nước uống
mỗi ngày.
Chữa thận hư, viêm thận tiểu cầu mãn tính, đái tháo đường,
đái đục, phong thấp, đau xương.
30-Trà Hà thủ ô :
Trà gói Hà thủ ô có bán sẵn pha nước uống.
Làm hạ lipid huyết và cholesterol, dự phòng xơ mỡ động
mạch, bổ gan thận, bổ máu, chữa thận suy, gan yếu, mất
ngủ, thiếu máu, đau lưng, khí hư, làm đen râu tóc.
Chống chỉ định :
Người có áp huyết thấp và đường thấp không dùng được hà
thủ ô, kiêng hành tỏi, củ cải.
31-Nước sắc hạt mã đề :
Hạt mã đề ( 4-8g ) sắc uống .
Chữa tiểu đường, khó tiêu, ho, và bệnh hiếm muộn ở nam
nữ.
Chống chỉ định :
Người gìa thận suy kém hay tiểu đêm không nên dùng.
32-Nước vỏ quả dưa hấu :
Vỏ qủa dưa hấu thái nhỏ 300g nấu với 300cc nước cho sôi
kỹ, vớt vỏ ra cho vào 30g kỷ tử, và 9g đẳng sâm, nấu cạn còn 200cc. Uống như nước
giải khát thay trà..
B. Phòng bệnh bằng thức ăn :
1- Phòng và chữa bệnh bằng canh bù ngót :
Dùng 100g rau ngót nấu canh với giò sống ăn thường
xuyên.
Phân tích công dụng của Rau bù ngót theo tây y :
Bù ngót còn có tên bồ ngót, rau ngót, tên khoa học là
Sauropus adrogynus (L.) Merr. Có chứa nhiều chất dinh dưỡng hàm lượng protein
cao gồm 79,80g nước, 7,80g protein, 1,80g chất béo, 6,90g carbohydrate, 1,90g
chất xơ, vit.A 10000 đơn vị, B1 0,23mg, B2 0,15mg, C 136mg, Ca 234mg, P 64mg,
Fe 3,10mg, ngoài ra còn có lysine, methionin, valin, tryptophan, phenylalanine,
threonin, valin, leucin, isoleucin.
Phân tích theo đông y :
Lá rau ngót có vị ngọt, tính mát. Rễ có vị ngọt nhạt
hơi đắng, tính mát, có tác dụng lương huyết, hoạt huyết, giải độc, lợi tiểu, chữa
sót nhau, tưa lưỡi, đái dầm, tiểu khó, nghẹt bàng quang.
Chống chỉ định :
Nước ép rau ngót tươi làm co bóp tử cung, dùng để chữa
bệnh sót nhau sau khi sanh, nên phụ nữ có thai cấm dùng.
2-Canh hoặc chè khoai mài hột sen :
Dùng 100g khoai mài, 50g hột sen nấu canh thịt, xương
heo. Hoặc khoai mài khô trong tiệm thuốc bắc bán gọi là hoài sơn, nấu chung với
hột sen, cho ít đường phèn ăn như chè.
Phân tích công dụng của Khoai mài theo tây y :
Tên khoa học Dioscorea persimillis Prain et Burkill,
Khoai mài chứa 63,25% tinh bột, 6,70% chất đạm, 0,45% chất béo có giá trị dinh
dưỡng qúy đứng sau gạo và bắp ngô, ngoài ra nó có chứa thành phần mucin là một
protein nhớt allantoin, các acid amine arginin, cholin và men maltase, men này
có khả năng thủy phân đường rất lớn, hồi phục chức năng co bóp của nhu động ruột
để tăng hấp thụ và chuyển hóa đường.
Phân tích theo đông y :
Khoai mài ở tiệm thuốc bắc gọi là Hoài sơn hay Sơn dược,
vị ngọt, tính bình, vào các kinh phế, tỳ, vị, thận để chữa tỳ vị hư nhược, thiếu
máu, ăn uống kém tiêu hóa, viêm ruột kinh niên, tiêu chảy lâu ngày không khỏi,
phổi yếu, ho, sinh tân dịch, tăng thể lực, sinh cơ bắp, nước miếng, bổ thận chữa
di tinh, đái đường, bạch đới, chống khát nước, đổ mồ hôi trộm.
3-Canh bí ngô, khoai mài :
Dùng bí ngô 150g, Củ khoai mài 100g, thịt heo nạc băm
nhỏ ướp muối 100g. Bí ngô, khoai mài sắc thành miếng nhỏ, cho 300cc nước đun nhỏ
lửa cho nhừ, rồi cho thịt vào quậy đều đến khi canh sôi thì ăn được.
4-Canh bí đao, giá đậu xanh :
Dùng bí đao xanh 2.,5 kg gọt vỏ thái miếng nhỏ, giá đậu
xanh 100g, thịt heo nạc băm nhỏ ướp muối vừa đủ. Cho thịt vào nồi với 250cc nước
đun sôi nhỏ lửa, khi thịt chín ,bỏ bí và giá đậu xanh vào quậy đều cho canh sôi
thì ăn được.
5-Ăn chè bắp ngô non nấu với củ mài :
Dùng bắp ngô non còn tươi bào hột lấy 200g cho thêm
100g củ khoai mài, nấu hơi sền sệt, có vị hơi ngọt ăn như chè.
6- Canh rau khoai lang đỏ :
Dùng 200g rau khoai lang đỏ luộc, nêm muối cho vừa làm
canh ăn mỗi ngày.
Phân tích công dụng của Khoai lang theo đông tây y :
Tên khoa học Ipomoea batatas (L.) Lamk. chứa các
protein, acid amine, pectic, chất khoáng Ca, Mn, Kali, Na, Phosphor, Clor,
Sulfur, Fe, Iode, Cu, Zn, các enzyme, chất béo, chất xơ, lá chứa vit E, có hoạt
tính ức chế mạnh aldose reductase ở thủy tinh thể trong bệnh tiểu đường, kháng
nấm, vi khuẩn.
Khoai lang có vị ngọt tính bình, có tác dụng bổ, nhuận
tràng làm phân mềm không đau bụng. Dùng 1 củ khoai lang sống giã nhỏ, chế nước
sôi uống vào sáng sớm để chữa táo bón. Ăn khoai chín đại tiện sẽ thông.
7- Cháo đậu xanh :
Dùng 50g đậu xanh còn vỏ, 50g gạo tẻ nấu chung thành
cháo ăn mỗi ngày để chữa tiểu đường, khát nhiều, uống nhiều tiểu nhiều .
8-Cháo Lá mía heo :
Dùng lá mía heo 1 cái, Hoài sơn 60g, Ý dĩ 120g. Nấu
cháo ăn trong ngày.
Chữa tiểu đường kèm theo sạn mật .
9-Cá diếc hấp lá chè khô :
Hai con cá diếc 300g làm sạch, bỏ vây vẩy, ướp muối, lá
chè khô 6g lót bọc chung quanh con cá đem hấp cách thủy, khi chín, bỏ lá chè ra
chỉ ăn cá. Ăn luôn 5 ngày.
10-Cháo kê :
Hạt kê 200g, bột bắp 50g nấu với 300cc nước đun nhỏ lửa,
khuấy đều đến khi chín ăn với muối .Có thể nấu cháo với thịt heo nạc xay. Ăn
vào buổi sáng mỗi ngày.
11-Canh hạt đậu chiều ( đậu cọc rào ).
Vỏ và qủa hạt đậu chiều 50-100g luộc làm canh ăn .
Phân tích công dụng của Hạt đậu chiều theo đông tây y :
Tên khoa học Cajanus cajan (L.) Millsp., chứa nhiều
protein, amineo glucoside cajamineose có tác dụng điều trị bệnh thiếu máu tế
bào hình liềm, Phenylalamine chứa trong hạt có hiệu lực ức chế sự phát sinh hồng
cầu hình liềm, lectin, cajaflavanon, globulin, arabinan, các men urea, dầu béo,
các acid linoleic, caprylic, laureic, oleic và eicosenoic.
Hạt đậu chiều là nguồn protein được dùng làm thực phẩm,
vỏ qủa đậu còn xanh dùng làm rau ăn. Ăn hạt sống làm xuất mồ hôi. Hạt và rễ chữa
sốt, viêm phổi, giải độc, chữa bệnh lậu, đau răng lợi, tiêu thủng, tiểu đêm. Rễ
thái mỏng ngậm chữa ho viêm họng.
12-Canh rau câu kỷ :
Dùng 200g lá câu kỷ nấu canh với giò sống.Ăn cái uống
nước.
Lá Câu kỷ có tác dụng giải nhiệt, thanh lọc máu, chữa
các chứng đau nhức xương khớp và bệnh lở ngứa ngoài da do nóng trong người hay
nhiễm trùng, nhọt độc, táo bón.
13-Canh thịt địa cốt bì :
Dùng địa cốt bì, trần bì, thần khúc mua ở tiệm thuốc bắc,
mỗi vị 10g nấu canh với 250g thịt ( một trong các loại
sau : dê, cừu, gan cừu, gan heo..)
Để bổ dưỡng cơ thể bị ốm lâu suy nhược gầy yếu.
14- Cháo Ý dĩ hạt sen :
Dùng 50g Ý dĩ, 20g hạt sen và 100g thịt heo nạc xay nấu
thành cháo.
Là món ăn cho những người cơ thể gầy yếu suy dinh dưỡng.
15- Ăn kỷ tử khô :
Có thể ăn từ 30-50g kỷ tử khô mỗi ngày như nho khô.
Khi dùng để ăn nên mua loại hột to, chín già, nếu ăn
khô có thể bị bón hoặc sợ qúa ngọt thì rửa sạch rồi bỏ trong ly chế nước sôi
vào ngâm cho nở ra trong 5-10 phút, múc ăn cả cái lẫn nước. Mỗi ngày dùng nó để
tăng cường hệ miễn dịch tăng cường trí nhớ cho người lớn tuổi.