Tế
bào chất để nuôi nhân tế bào phát triển gồn 3 chất chính từ thức ăn
(carbohydrates) glucose + protein + Lipid
Glucose+Protein = Glycoprotein là chất vận chuyển thức ăn thuốc bổ vào nuôi tế bào và vận chuyện chất độc, xấu trong tế bào ra ngoài.
Glucose+Lipid = Glycolipid là chất tạo màng tế bào, bảo vệ màng tế bào và các sợi thần kinh
Glucose+Protein = Glycoprotein là chất vận chuyển thức ăn thuốc bổ vào nuôi tế bào và vận chuyện chất độc, xấu trong tế bào ra ngoài.
Glucose+Lipid = Glycolipid là chất tạo màng tế bào, bảo vệ màng tế bào và các sợi thần kinh
Vì
thế thuốc nào có chất độc xâm nhập vào tế bào bị Glycoprotein phản ứng đẩy ra
ngoài không tiếp nhận, không hấp thụ, vì thế trong thuốc chữa ung thư có chứa
chất P-glycoprotein để phá vỡ màng tế bào này mà tây y gọi là tế bào ung
thư, do đó tây y sợ cho bệnh nhân dùng đường sẽ làm cho chức năng vận chuyển
các chất vào hay ra tế bào bị cản trở không cho xâm nhập, như vậy có nghĩa là
thuốc chữa ung thư không tốt nó từ chối, tuy nhiên nó vẫn nhận chất bổ vào tế
bào, vẫn đẩy ra chất dộc có trong tế bào.
Do
đó vế ngành dược phải nghiên cứu cách đưa thuốc chữa bệnh vào tế bào, lọt qua
màng tế bào phá hỏng 2 chất trung gian nuôi dưỡng bảo vệ tế bào là glucoprotein
và glycolipid, do đó họ sợ bệnh nhân ung thư dùng đường.
Các
protein vận chuyển ra (Efflux transporters) như P-glycoprotein đóng một vai trò
quan trọng trong việc vận chuyển thuốc tại nhiều cơ quan. Tại ruột,
P-glycoprotein bơm thuốc ngược trở ra lòng ruột (lumen), làm giảm sự hấp thu.
Những thuốc cảm ứng P-glycoprotein như rifampicin, có thể làm
giảm sinh khả dụng một số thuốc. Những thuốc ức chế P-glycoprotein, như
verapamil, làm tăng sinh khả dụng của nhiều thuốc.
Nhiều thuốc, chứ không phải tất cả, được vận chuyển bởi P-glycoprotein
và cũng bị chuyển hóa bởi Chytochrome P450 3A4.
Các cơ chất quan trọng vận chuyển bởi P-glycoprotein bao gồm các
thuốc nhóm chẹn kênh calci, cyclosporin, dabigatran etexilate, digoxin,
erythromycin, loperamide, các thuốc ức chế men protease và tacrolimus. Việc dự
đoán mức độ nghiêm trọng các tương tác trên lâm sàng trở nên khó khăn bởi vì có
nhiều cơ chế khác nhau trong vận chuyển thuốc.
Giới
thiệu
P-glycoprotein
là một trong các protein vận chuyển – chúng quyết định vận chuyển thuốc vào
(uptake) hoặc vận chuyển ra (efflux) khỏi cơ thể. Quá trình vận chuyển thuốc
ảnh hướng đến nồng độ thuốc trong huyết tương và tại mô và cuối cùng ảnh hướng
đến tác dụng của thuốc. P-glycoprotein là một protein vận chuyển xuyên màng, nó
vận chuyển các cơ chất từ trong ra ngoài tế bào. Những thuốc ức chế hoặc cảm
ứng P-glycoprotein có thể tương tác với các thuốc khác được vận chuyển bởi
protein này.
Dược lý
P-glycoprotein được tìm thấy lần đầu trong các tế bào ung thư.
Những tế bào này có sự hiện diện quá mức của P-glycoprotein, điều này làm giảm
việc thâm nhập của các thuốc độc tế bào (điều trị ung thư) vào trong cơ thể.
Bởi vì điều này tạo cho các khối u khả năng kháng thuốc trị ung thư,
P-glycoprotein còn được biết đến như là protein gây đề kháng đa thuốc
(multidrug resistance protein). P-glycoprotein cũng hiện diện ở nhiều mô bình
thường, không phải ung thư, với chức năng bài tiết (như ruột non, gan, thận)1và
tại các hàng rào máu-mô (như hàng rào máu - não, hàng rào máu – tinh hoàn, hàng
rào nhau thai).
Cùng
với các enzyme cytochrome P450, sự hiện diện của P-glycoprotein được tin là một
bước tiến hóa thích hợp của cơ thể để chống lại các chất độc hại tiềm tàng muốn
thâm nhập vào cơ thể. Với vài trò là một kênh vận chuyển đẩy thuốc ra khỏi cơ
thể, nó làm giảm sinh khả dụng của các thuốc dùng đường uống bằng cách bơm
ngược thuốc trở lại lumen ruột. Điều này thúc đẩy bài tiết thuốc qua mật và
nước tiểu, qua đó bảo vệ một số mô như não, tinh hoàn, nhau thai và bạch cầu.
Cơ chất vận chuyển bởi P-glycoprotein có rất nhiều cấu trúc khác nhau.
Hấp thu thuốc
Các tế bào biểu mô nằm bên trong ruột non không chỉ là nơi hấp
thu thuốc mà còn là một hàng rào quan trọng ngăn cản hấp thu các chất sinh học
ngoại lai. P-glycoprotein được tìm thấy trên mặt đỉnh của màng tế bào thuộc ống
tiêu hóa, từ tá tràng đến trực tràng, nhưng nhiều hơn hết là ở các tế bào biểu
mô ruột non. P-glycoprotein làm giảm sinh khả dụng của các thuốc dùng đường
uống, nếu các thuốc đó là cơ chất vận chuyển của nó.
Giống
như các enzyme chuyển hóa thuốc, các cơ chất của P-glycoprotein có thể có khả
năng ức chế hoặc cảm ứng hoạt động của nó. Các chất ức chế P-glycoprotein có
thể làm tăng sinh khả dụng của một số thuốc. Chất cảm ứng P-glycoprotein thì
lại làm giảm sinh khả dụng.
Phân bố thuốc
Một khi
thuốc vào hệ tuần hoàn, P-glycoprotein hạn chế sự thấm thêm thuốc vào một số
mô. P-glycoprotein cũng đóng vai trò quan trọng trong hàng rào máu – não, chống
lại sự xâm nhập của thuốc và các chất độc hại vào trong hệ thần kinh trung
ương.
Thải trừ thuốc
P-glycoprotein
tham gia thải trừ thuốc không nhiều. Nó chỉ hiện diện tại bề mặt của tế bào ống
lượn gần ở thận. P-glycoprotein tham gia vận chuyển thuốc ra nước tiểu.
Tương tác thuốc
P-glycoprotein đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa các
tương tác thuốc – thuốc. Dược động học của thuốc có thể sẽ bị thay đổi khi được
dùng cùng với một chất gây ức chế hoặc cảm ứng P-glycoprotein.Các chất ức chế
bao gồm clarithromycin, erythromycin, ritonavir và verapamil. Chất cảm ứng bao
gồm rifampicin và St John’s wort (một loại thảo dược).
Có nhiều cơ chất được vận chuyển bởi P-glycoprotein tương tự với
CYP3A4. Nó vận chuyển nhiều thuốc thuộc nhiều nhóm khác nhau, bao gồm:
·Thuốc trị ung thư: docetaxel, etoposide, vincristine
·Nhóm chẹn kênh calci : amlodipine
·Nhóm ức chế calcineurin : cyclosporin, tacrolimus
·Digoxin
·Kháng sinh nhóm macrolide : Clarithromycin
·Nhóm ức chế men protease
·Nhóm chẹn kênh calci : amlodipine
·Nhóm ức chế calcineurin : cyclosporin, tacrolimus
·Digoxin
·Kháng sinh nhóm macrolide : Clarithromycin
·Nhóm ức chế men protease
Các cơ chất của P-glycoprotein có thể chia thành 2 loai: các
thuốc không bị chuyển hóa ở người, chẳng hạn như digoxin và những thuốc là cơ
chất của cả P-glycoprotein và enzym chuyển hóa thuốc, thông thường là
CYP3A4. Nhiều cơ chất của P-glycoprotein cũng là cơ chất của CYP3A4 vì những
chất ức chế P-glycoprotein thì cũng ức chế CYP3A4, nhiều tương tác thuốc –
thuốc có liên quan đến sự ức chế hay cảm ứng cả P-glycoprotein và CYP3A4. Một
số thuốc là tác nhân của các tương tác trên như: cyclosporin, tacrolimus và
rivaroxaban.
Giống với tế bào gan, các tế bào biểu mô ruột hiện diện đồng
thời cả emzyme chính chuyển hóa thuốc là CYP3A4 và protein vận chuyển thuốc ra,
P-glycoprotein. Điều này tạo ra một “liên hiệp” vận chuyển và chuyển hóa thuốc, giúp tăng cường chuyển hóa thuốc bởi CYP3A4 thông qua việc lặp đi lặp lại vòng hấp thu - vận chuyển ra. Sự thay đổi hàng rào chức năng này bằng việc kê đơn nhiều thuốc cùng lúc làm thay đổi khả năng hấp thu, gây ra sự khác nhau giữa các cá thể về nồng độ thuốc trong tuần hoàn hệ thống, và có thể làm tăng nguy cơ độc tính.
P-glycoprotein. Điều này tạo ra một “liên hiệp” vận chuyển và chuyển hóa thuốc, giúp tăng cường chuyển hóa thuốc bởi CYP3A4 thông qua việc lặp đi lặp lại vòng hấp thu - vận chuyển ra. Sự thay đổi hàng rào chức năng này bằng việc kê đơn nhiều thuốc cùng lúc làm thay đổi khả năng hấp thu, gây ra sự khác nhau giữa các cá thể về nồng độ thuốc trong tuần hoàn hệ thống, và có thể làm tăng nguy cơ độc tính.
Sự khác
nhau về sinh khả dụng giữa các cá thể làm cho việc dự đoán một cách chính xác
các tương tác thuốc – thuốc tiềm tàng thông qua P-glycoprotein trở nên phức
tạp. Điều này cũng ảnh hưởng đến những thuốc không bị chuyển hóa ở người
(fexofenadine, digoxin).Cần có nhiều hơn nữa những kiến thức về vai trò của gen
đối với hoạt động và biểu lộ của protein vận chuyển sẽ gópphần giúp hiểu rõ hơn
về sự khác nhau về phân bố và tác dụng của thuốc giữa các cá thể và chủng tộc
khác nhau.
Loperamide
P-glycoprotein là một protein vận chuyển quan trọng nhất trong
việc giảm thiểu sự xâm nhập của thuốc loperamide vào hệ thần kinh trung ương.
Loperamide, thuốc không kê đơn (OTC) dùng trong điều trị tiêu chảy là một
opioid mạnh, nhưng lại không có tác dụng của opioid trên thần kinh trung ương ở
liều thông thường. Điều này được giải thích là bởi P-glycoprotein đã ngăn cản
thuốc đi xuyên hàng rào máu – não.
Việc kê
đơn đồng thời loperamide với một chất ức chế P-glycoprotein mạnh, như
verapamil, có thể dẫn đến suy hô hấp (do thuốc đi vào thần kinh trung ương).
Tác dụng tiềm tàng trên thần kinh trung ương nguy hiểm này, lại gây ra bởi một
loại thuốc được sử dụng rộng rãi và dễ dàng mua được thế này thì thật đáng lưu
tâm. Nó dấy lên các mối lo ngại an toàn khi sử dụng thuốc nhưng lại đề xuất ra
một chiến lược mới, giúp đưa thuốc đến não nhiều hơn.
Digoxin
Việc ức
chế hay cảm ứng P-glycoprotein tại ruột dường như là một cơ chế chính làm giảm
hay tăng cao nồng độ digoxin. Rifampicin và St john’s wort là các chất cảm ứng
P-glycoprotein và vì thế làm giảm nồng độ digoxin.
Các chất ức chế protease HIV-1
Hiệu quả điều trị HIV có thể bị cản trở bởi P-glycoprotein có mặt tại màng tế bào. Những cơ chế có thể như sau:
·P-glycoprotein ở ruột làm giảm hấp thu thuốc.
·Các chất ức chế protease HIV-1 là những cơ chất của P-glycoprotein, vì vậy nó hạn chế khả năng thấm qua màng máu – não, có thể góp phần làm virus kháng thuốc và giảm hiệu quả điều trị.
·P-glycoprotein cũng có ở tế bào CD4, cũng là đích tác dụng chính của các thuốc kháng HIV (nó đẩy thuốc ra khỏi tế bào CD4).
Dabigatran
Dabigatran
etexilate là một cơ chất của P-glycoprotein, vì vậy có khả năng sẽ xảy ra các
tương tác liên quan đến các thuốc tác động lên P-glycoprotein. Các chất ức chế
P-glycoprotein như ketoconazole, amiodarone, verapamil, ticagrelor and
clarithromycin có thể làm tăng đỉnh nồng độ thuốc trong huyết tương của
dabigatran, và hệ quả là làm tăng đáng kể nguy cơ xuất huyết nặng.
Kết luận
P-glycoprotein là một protein vận chuyển đẩy thuốc ra khỏi cơ
thể, nó có mặt tại nhiều cơ quan và đóng một vai trò quan trọng trong việc vận
chuyển thuốc. Và có vai trò quan trọng trong hấp thu, phân bố, chuyển hóa và
thải trừ thuốc. Mặc dầu các tương tác với protein vận chuyển thuốc trên lâm
sàng có thể không có nhiều ý nghĩa, nhưng các cảnh báo về những nguy cơ xảy ra
tương tác thuốc liên quan đến protein vận chuyển thuốc vẫn rất quan trọng. Nếu
tương tác xảy ra, hậu quả có thể là suy nhược hệ thần kinh trung ương, giảm
hiệu quả điều trị HIV, thải loại mảnh ghép. Trang bị những kiến thức về những
tương tác tiềm tàng này sẽ giúp đảm bảo việc chăm sóc và điều trị hiệu quả trên
nhóm các bệnh nhân nguy cơ.