I-CẤU TẠO GAN
Trong các
cơ quan nội tạng, gan có khối lượng lớn nhất, vượt cả tim, phổi, thận…, với khối
lượng trung bình từ 1.1 - 1.8kg có bề dày trung bình khoảng 15cm chiếm khoảng
13% trên tổng lượng máu cơ thể.
Gan được phân chia thành 2 thùy (lobe), thùy phải và thùy trái, với khoảng giữa
của hai thuỳ nằm hơi chồng mí lên nhau, phân chia gan thành 8 phần nhỏ
(segment) dựa vào sự phân phối của các mạch máu trong gan.Túi mật nằm dưới gan, cùng với các bộ phận của tuyến tụy và ruột. Gan và các cơ quan này phối hợp với nhau để tiêu hóa, hấp thụ và chế biến thức ăn.
Mỗi thùy của gan lại phân ra hàng ngàn đơn vị cấu trúc rất nhỏ, mỗi đơn vị có hình lục giác, rất nhỏ.Tuy rất nhỏ, nhưng mỗi một đơn vị cấu trúc ấy đều có một tĩnh mạch cực nhỏ chạy xuyên qua giữa tâm và cuối cùng tập trung cả về tĩnh mạch gan, là tĩnh mạch đưa máu ra khỏi gan về tim. Vây quanh tĩnh mạch cực nhỏ ở giữa của mỗi đơn vị cấu trúc là hàng trăm tế bào hình khối, được gọi là hepatocyte.
Bên ngoài bề mặt của mỗi đơn vị cấu trúc là những tĩnh mạch, động mạch nhỏ và các ống dẫn đưa các chất lỏng đến và đi. Khi gan hoạt động, các chất dinh dưỡng được thu nạp, các chất thừa bị thải bỏ, và những chế phẩm của gan được đưa vào cơ thể qua các ống dẫn này.
Mạng lưới các “ống dẫn” chuyển tải qua gan mỗi một phút khoảng chừng 1,4 lít máu. như máu chạy qua gan 24 giờ trung bình là 2.000 lít máu! Lượng máu này sau khi đi qua gan cuối cùng được chuyển trở về tim để từ đó được phân phối đi cho các bộ phận khác trong cơ thể.
Gan được bọc quanh bởi một phần vỏ ngoài có rất nhiều dây thần kinh. Lớp vỏ bọc này được gọi tên là Gibson. Tuy nhiên, các tế bào bên trong của gan lại hoàn toàn không có các dây thần kinh cảm giác.Vì vậy, khi gan bị tổn thương chúng ta không có cảm giác đau đớn gì cả.
Chỉ trong trường hợp nào gan bị sưng phồng lớn lên, làm cho lớp vỏ bọc Gibson bị kéo căng ra, chúng ta mới cảm thấy những cơn đau tức hoặc khó chịu ở vị trí của gan. Điều này xảy ra trong một số trường hợp viêm gan cấp tính hoặc khi lá gan sưng lớn vì bị suy tim phải.
II-CHỨC NĂNG GAN :
Gan có hơn 500 chức năng, làm nhiệm vụ chính như một cơ quan thực hiện các phản ứng hóa học, và làm nhiệm vụ như một tuyến tiết ra các hóa chất cho các bộ phận khác sử dụng, và giúp máu đóng cục và phá vỡ các tế bào bị hư hại.
Gan có sự phân biệt là cả một tuyến và một cơ quan.
Là một cơ quan, nó có thể thực hiện các phản ứng hóa học, và như một tuyến, nó tiết ra các hóa chất cho các bộ phận khác của cơ thể sử dụng.
Đặc điểm nổi bật của gan là khả năng tự tái tạo, phát triển các tế bào của chính mình trong trường hợp bị phá huỷ bởi các thương tổn tạm thời hoặc bệnh tật. Tuy nhiên, nếu những thương tổn này liên tục kéo dài, gan có thể sẽ không hồi phục lại chức năng của mình như trước được.
4 nhiệm vụ chính của gan là :
Làm sạch máu .
Tạo ra một chất lỏng tiêu hóa quan trọng gọi là mật.
Lưu trữ năng lượng dưới dạng một loại đường gọi là glycogen.
Tạo ra cholesterol và làm đông máu.
1-Gan làm sạch máu loại bỏ độc tố.
Gan lấy độc tố ra khỏi máu do cơ thể sản xuất hormon, enzyme phá vỡ các thành phần trong thức ăn khi ăn như thịt và các loại hạt.
Một trong những chức năng chính của gan là loại bỏ độc tố khỏi cơ thể bao gồm, nhưng không giới hạn, ô nhiễm, khói và rượu. Nó đạt được điều này thông qua quá trình oxy hóa: men gan và độc tố đốt cháy oxy. Kết quả được kết hợp với các acid amin để các độc tố bị đốt cháy có thể được loại bỏ qua mật hoặc dưới dạng nước tiểu.
Gan cũng làm sạch máu vừa được bổ sung vitamin và khoáng chất trong quá trình tiêu hóa. Sau khi bạn ăn một thứ gì đó, các vitamin, khoáng chất và các chất dinh dưỡng khác từ thức ăn sẽ chuyển từ ruột vào máu, máu có giàu chất dinh dưỡng dừng lại ở gan để chế biến thành những sản phẩm tốt cho các cơ quan nội tạng dùng. Các chất thải xấu không cần thiết được mật dẫn xuống ruột để bài tiết ra ngoài thành phân, còn các chất thải khác cũng theo máu đến thận lọc lại thành nước tiểu.
Nếu vô tình chúng ta ăn thứ gì đó có hại, gan sẽ cố gắng phá vỡ nó và loại bỏ nó khỏi cơ thể.
Gan không chỉ loại bỏ các chất có hại mà còn giúp chống lại nhiễm trùng bằng cách huy động các tế bào Kupffer, một phần của hệ thống đại thực bào. Đại thực bào là các tế bào bạch cầu của hệ miễn dịch tiêu thụ các chất có hại trong cơ thể, chẳng hạn như vi khuẩn. Các tế bào kupffer cư trú đặc biệt trong gan. Chúng tiêu diệt bất kỳ vi khuẩn nào chúng gặp phải và đặc biệt hữu ích khi chống lại nhiễm trùng đường ruột.
2-Gan sản xuất mật .
Trong quá trình tiêu hóa, cơ thể lấy mọi thứ cần từ thức ăn và chất béo là một trong những thứ cơ thể nhận được từ thực phẩm.
Là một tuyến, gan tạo ra 800 đến 1000 mL mật mỗi ngày với sự trợ giúp của túi mật, nằm ngay dưới nó. Chất lỏng màu xanh đậm hoặc vàng này chứa các chất hữu cơ như acid và cholesterol. Nó giúp tiêu hóa chất béo và vitamin trong ruột non, để chuẩn bị cho chúng hấp thụ hoặc loại bỏ.
Mật là một loại nước ép tiêu hóa do gan sản xuất, giúp cơ thể hấp thụ chất béo vào máu. có màu vàng và xanh lá cây được lưu trữ trong túi mật dự trữ dùng để tiêu hóa chất béo.
3-Gan lưu trữ năng lượng Glycogen
Hợp tác với tuyến tụy, gan cân bằng lượng đường trong máu bằng cách chuyển hóa carbohydrate. Gan loại bỏ thêm đường từ máu và lưu trữ dưới dạng glycogen. Ví dụ, khi lượng đường trong máu quá thấp, nó sẽ phá vỡ glycogen được lưu trữ và giải phóng nó trong máu cho đến khi mức đường được bình thường hóa. Nếu lượng đường trong máu cao, gan sẽ hấp thụ glucose để đáp ứng với insulin.
Gan cũng giúp cơ thể sử dụng carbohydrate (carbs), một thành phần quan trọng khác trong thực phẩm. Carbohydrate được tìm thấy trong nhiều loại thực phẩm, chẳng hạn như bánh mì, trái cây, rau củ quả và sữa. Cơ thể phân hủy hầu hết các carbs thành một loại đường gọi là glucose, đây là nguồn nhiên liệu chính cho các tế bào. Glucose được lưu trữ trong gan được gọi là glycogen.
Khi cơ thể cần tăng năng lượng nhanh chóng hoặc khi mức đường huyết của một người giảm, gan sẽ phân hủy glycogen và giải phóng glucose vào máu.
4-Gan tạo ra cholesterol và giúp đông máu :
Gan có tác dụng trong việc tạo ra cholesterol, triglycerid từ đường dư thừa trong thực phẩm và mật lại có nhiệm vụ phá hủy những chất béo xấu.
Gan giúp đông máu khi bị chảy máu, gan sẽ vỡ những hoạt chất trong thuốc cho cơ thể sử dụng.
Khác hẳn với tất cả những cơ quan khác, gan là cơ quan duy nhất trong cơ thể nhận đến hai nguồn cung cấp máu.
Động mạch gan cung cấp từ 25 đến 30% lượng máu giàu oxy cho gan, là nguồn nuôi sống các tế bào của cơ quan này. Khoảng 70 đến 75% lượng máu còn lại mà gan nhận được là qua tĩnh mạch cửa của gan.
Lượng máu này được đưa đến từ cơ quan tiêu hoá như bao tử, lá lách, tụy tạng, túi mật, ruột non, ruột già….. đã hòa tan và mang các chất dinh dưỡng đến gan để được tiếp tục chế biến thêm hoặc dự trữ lại.
Như vậy, gan là cơ quan đầu tiên trong cơ thể nhận được các dưỡng chất từ các cơ quan tiêu hoá, để làm nhiệm vụ kiểm soát, thanh lọc và chế biến trước khi đưa ra cung cấp cho tất cả các cơ quan khác trong toàn cơ thể. Đây cũng là nguyên nhân chính khiến cho ung thư từ nhiều bộ phận khác của cơ thể dễ dàng lan đến gan.
5-Những chức năng quan trọng khác của gan :
a-Tái tạo gan
Gan là một cơ quan rất có sức chứa. Ngoài việc điều chỉnh kích thước của nó để phù hợp với chức năng hoạt động, nó có thể tái sinh. Do bệnh, bác sĩ có thể cần phải cắt bỏ một phần gan của một người. Với điều kiện bệnh tật là quá cao, các phần bị cắt bỏ sẽ phát triển trở lại. Các chuyên gia cho biết một lá gan chiếm 40% kích thước bình thường sẽ tự sửa chữa hoàn toàn sau một tháng, miễn là không có biến chứng.
b-Duy trì áp suất chất lỏng thích hợp
Protein huyết tương là chất vận chuyển chất béo, vitamin, khoáng chất và kích thích tố. duy trì pH máu. Gan tổng hợp ba loại protein huyết tương, và albumin là phong phú nhất. Protein rất giàu acid thiết yếu như lysine và arginine và rất quan trọng để duy trì áp lực và phân phối nước và chất lỏng thích hợp giữa máu và các mô.
c-Bài tiết Bilirubin
Một tế bào hồng cầu sống khoảng 120 ngày trước khi nó bắt đầu tan rã. Các huyết sắc tố từ các tế bào hồng cầu bị phân hủy chia thành bốn phần: globin, protein, sắt và heme. Heme cuối cùng giảm thành một sắc tố màu vàng cam gọi là bilirubin. Sản phẩm thải này di chuyển đến gan, nơi nó trở nên hòa tan hơn và được kết hợp với mật dẫn chất thải xuống hệ thống bài tiết sau đó bài tiết nó dưới dạng phân và nước tiểu.
d-Gan phá vỡ chất béo
Trong số nhiều chức năng của nó, chuyển hóa chất béo là chìa khóa cho gan. Khi các đường dự trữ glycogen đã đầy, glucose dư thừa được chuyển thành acid béo. Máu chuyển cholesterol và acid béo, lưu trữ chúng trong các mô mỡ. Quá nhiều chất béo có thể khiến gan nhiễm mỡ, có thể làm suy giảm chức năng của nó.
e-Thoát khỏi amoniac
Amoniac là sản phẩm phụ tự nhiên của vi khuẩn hoạt động trong ruột cũng như các tế bào chuyển hóa protein. Các chất thải độc hại cao phải được loại bỏ khỏi cơ thể nếu không nó sẽ làm hỏng hệ thống thần kinh trung ương. Bởi vì amoniac không hòa tan, nó đi qua gan và chuyển thành urê, sau đó chuyển đến thận để rời khỏi cơ thể vào nước tiểu.
f-Tạo và trục xuất cholesterol
Là một tuyến, gan không chỉ loại bỏ cholesterol khỏi cơ thể mà còn tạo ra nó. Gan sản xuất hầu hết lượng cholesterol trong cơ thể và cần thiết để tạo ra vitamin D, enzyme tiêu hóa và hormon. Vì nó có thể đi du lịch một mình trong dòng máu, nên nó kết hợp với các lipoprotein mật độ thấp và mật độ cao. Cholesterol dư thừa được kết hợp với mật để gan có thể loại bỏ nó.
III-ĐỊNH NGHIĨA VỀ SUY
GIẢM CHỨC NĂNG GAN
A-6 Dấu hiệu suy giảm chức năng gan
Gan là cơ quan quan trọng trong việc bảo tồn sức khỏe của con người. Khi cơ quan này bị tổn thương, virus tấn công hay phải làm việc cật lực, quá sức, mắc bệnh mãn tính,… sẽ không được bình thường và người ta gọi là suy giảm chức năng gan.
Nếu như chúng ta đang khỏe mạnh mà lại phát hiện ra 6 dấu hiệu dưới đây thì sức khỏe gan đang có vấn đề cần được điều trị:
1.Bị rối loạn tiêu hóa
Dấu hiệu đầu tiên thường hay gặp nhất là đi đại tiện nhiều lần, bất thường, có phân lỏng, mệt mỏi, chán ăn vì ăn không thấy ngon miệng. Một là cơ thể bị vấn đề về tiêu hóa, hai là gan đang có dấu hiệu không tốt
2. Dấu hiệu ngoài da.
Suy giảm chức năng gan thì màu da, màu mắt và móng tay chân sẽ thay đổi biến sắc thành màu vàng dễ nhận thấy rõ.
3.Mắt không khỏe
Khi gan bị suy giảm chức năng mắt cũng bị ảnh hưởng là quầng mắt bị thâm, nhanh mỏi mắt
4.Mùi hơi thở nặng
Nếu ai có hơi thở hay nặng mùi so với bình thường, có khi là do răng miệng, có khi bị suy giảm chức năng gan giải độc cho cơ thể không tốt, dẫn tới hơi thở nặng mùi cétone hay mùi khai bởi rối loạn trong hệ tiêu hóa làm vi khuẩn có điều kiện để phát triển mạnh hơn.
5.Gan bị to và trướng bụng
Tiếp nhận quá nhiều chất độc thì gan sẽ không kịp giải độc, tích lũy nhiều nước thải trong gan, gan to lên, dấu hiệu gan lớn, bị trướng bụng thường đi kèm với việc bị vàng da, dạ dày sẽ trương phình.
6.Một số dấu hiệu khác
Bên cạnh đó thì còn có một số dấu hiệu khác như số lượng tiểu cầu bị giảm và thiếu hụt các yếu tố đông máu, hậu quả của việc này là các đám xuất huyết hoặc bầm tím xuất hiện trên da, có thể xuất hiện ngay cả sau khi bị va đụng nhẹ hoặc tự nhiên, cũng có thể gây rụng tóc và các biến loạn ở móng tay, móng chân như bạch sản móng, mất móng.
B-Những bệnh về gan .
1-Viêm gan:
Viêm gan, thường do các loại virus như viêm gan A, B và C. Viêm gan có thể có nguyên nhân không nhiễm trùng, bao gồm uống nhiều rượu, thuốc, dị ứng hoặc béo phì.
2-Xơ gan:
Tổn thương gan lâu dài do mọi nguyên nhân có thể dẫn đến sẹo vĩnh viễn, được gọi là xơ gan. Gan sau đó không thể hoạt động tốt.
3-Ung thư gan:
Loại ung thư gan phổ biến nhất, ung thư biểu mô tế bào gan, hầu như luôn xảy ra sau khi bị xơ gan.
4-Suy gan:
Suy gan có nhiều nguyên nhân bao gồm nhiễm trùng, bệnh di truyền và rượu quá mức.
5-Cổ trướng:
Khi kết quả xơ gan, gan rò rỉ chất lỏng (cổ trướng) vào bụng, trở nên căng thẳng và nặng nề.
6-Sỏi mật:
Nếu sỏi mật bị kẹt trong ống mật dẫn lưu gan, viêm gan và nhiễm trùng ống mật (viêm đường mật) có thể dẫn đến ung thư.
7-Hemochromatosis:
Hemochromatosis cho phép sắt lắng đọng trong gan, gây hại cho gan. Chất sắt cũng lắng đọng khắp cơ thể, gây ra nhiều vấn đề sức khỏe khác.
8-Viêm đường mật xơ cứng tiên phát:
Một bệnh hiếm gặp không rõ nguyên nhân, viêm đường mật xơ cứng nguyên phát gây viêm và sẹo trong các ống mật trong gan.
9-Xơ gan mật nguyên phát:
Trong rối loạn hiếm gặp này, một quá trình không rõ ràng sẽ dần dần phá hủy các ống dẫn mật trong gan. Sẹo gan vĩnh viễn (xơ gan) cuối cùng phát triển.
10-Ngộ độc acetone.
Ngộ độc acetone xảy ra khi có nhiều acetone trong gan có thể bị phá vỡ.
Mỗi ngày, cơ thể bạn phân hủy chất béo thành các phân tử hữu cơ gọi là ketone. Acetone là một trong ba loại cơ thể ketone. Gan tạo ra ketone để sử dụng chúng làm nhiên liệu. Tuy nhiên, tích lũy ketone trong cơ thể nhiều có thể nguy hiểm. Ngộ độc acetone có thể xảy ra khi có một lượng ketone cao bất thường. Đây là một tình trạng được gọi là ketoacidosis.
Những người mắc bệnh tiểu đường loại 1 hoặc loại 2, có thể bị nhiễm ketoacidosis nếu không điều trị tiểu đường của mình đúng cách.
Nạn đói kéo dài cũng có thể dẫn đến nhiễm toan cetone. Trong trường hợp đó, cơ thể cạn kiệt nguền nguyên liệu carbohydrate từ thức ăn vào cơ thể thì gan phải tự phân hủy chất béo được lưu trữ thành ketone. Nồng độ ketone trong máu có thể tích lũy nhanh chóng và phát triển cao nguy hiểm.
Ngộ độc acetone có thể có các nguyên nhân khác, bao gồm:
Uống rượu bị say, tiếp xúc quá nhiều với sơn cụ thể trong không gian hạn chế, vô tình uống dung dịch tẩy rửa có chứa acetone, nước tẩy sơn móng tay.
IV-HAI NGUYÊN NHÂN QUAN TRỌNG GÂY UNG THƯ GAN DO NHIỄM CÉTONE BỞI THUỐC HẠ ĐƯỜNG VÀ RƯỢU.
Trong bài này chúng ta không đề cập đến ung thư gan do viêm gan siêu vi A, B, C, nhưng hiện nay ung thư gan rất nhiều không liên quan đến viêm gan siêu vi A,B, C mà liên quan đến nguyên nhân do uống rượu, và do thuốc hạ đường huyết khiến cho gan bị nhiễm cétone mà chúng ta chưa biết tại sao ?
1-Tại sao nguyên nhân ung thư gan do thuốc hạ đường huyết :
a-Đường Glucose cần thiết cho hoạt động của não, tim, và nuôi tế bào.
Nguồn gốc căn bản của tây y là các tế bào đều có 4 chất nuôi tế bào phát triển là glucose, protein, lipid, oxy. Trong tế bào nào cũng phải có glucose, như vậy hàng tỷ tế bào trong cơ thể phải dùng một số lượng lớn glucose mỗi ngày.
Một lý thuyết khác về não và tim, 2 cơ quan này chỉ cần đường glucose để hoạt động mà các đường khác không thể thay thế, thì chúng cần đến 180g glucose, trong đó não và thần kinh trung ương cần 144g glucose, còn tim cần 36g glucose, vì thế Hội Tim Mạch Hoa Kỳ cảnh báo muốn tim hoạt động tốt mỗi ngày tim cần 6 thìa cà phê đường glucose cho nữ hay 9 thìa cho nam, không thể thiếu được.
Khoa học cũng chứng minh trọng lượng thức ăn hàng ngày, từ cơm gạo, tinh bột, rau củ quả thực vật hay động vật, được bộ tiêu hóa chắt lọc được 80% là đường các loại, thì số lượng đường này phải đủ nhu cầu chính cho tim và não
trước đã, là 180g là 80%, thì thức ăn ít nhất phải nặng hơn, vừa nuôi não, tim và hàng tỷ tế bào trong toàn thân, nên mỗi bữa ăn phải trên 500g.
d-Do nhu cầu tim và não cần đường glucose, khi chúng ta ăn nhiều đường, phải theo đúng tiêu chuẩn đói-no của Y Tế Thế Giới năm 1979 hay năm 2018 là tiêu chuẩn đường bảo vệ tim mạch và não hoạt động tốt.
Tiêu chuẩn đường-huyết khi đói từ 100-140mg/dL, tiêu chuẩn no sau khi ăn 30 phút từ 140-200mg/dl theo năm 1979, hay từ 140-180mg/dl theo năm 2018.
Còn tiêu chuẩn đường huyết ngành y tế đang áp dụng không có tiêu chuẩn no, và tiêu chuẩn đường lại bị hạ thấp, mục đích tạo ra nhiều người bị bệnh để trục lợi, đo đường huyết chỉ được quyền thấp dưới 126mg/dL=7mmol/l, nếu cao hơn là bị bệnh tiểu đường phải dùng thuốc hạ đường, nên đường trong cơ thể lúc nào cũng thiếu làm suy yếu chức năng thần kinh não bộ, suy tim và không đủ glucose nuôi hàng tỷ tế bào.
Tại sao chúng ta không thắc mắc, nếu tôi bị bệnh tiểu đường, lại kiêng đường, và còn uống thuốc hạ đường, sau khi đường huyết xuống thấp rồi lại tăng cao hơn tiêu chuẩn 126mg/dL, nên cứ phải dùng thuốc hạ đường suốt đời, và sức khỏe càng yếu, càng mất sức ? Như vậy đường ở đâu ra, mà thử đường huyết vẫn cao ?
Để giải thích câu hỏi này, trước hết chúng ta phải chấp nhận não và tim phải cần đường mỗi ngày, để lúc nào đo đường huyết khi đói phải nằm trong tiêu chuẩn 100-140mg/dL, khi no phải từ 140-180mg/dL, như vậy phải có một trong 2 nguồn cung cấp đường cho não, tim và hàng tỷ tế bào trong cơ thể.
Nguồn A là nguồn đường từ bên ngoài cơ thể vào, do ăn uống thức ăn có đường, tạm gọi là đường dương đi vào cơ thể, muốn biết đường có vào cơ thể đủ hay không sau khi ăn 30 phút đo đường huyết phải từ 140-180mg/dl, nếu không đủ phải uống thêm nước mía, hay pha 1-2 thìa canh mật mía với 1 ly 250cc nước ấm uống thêm, khi đo pH nước bọt phải trung tính 7-8 nghiêng về kiềm. Sau 2 giờ glucose được insulin nội là insulin có sẫn trong tụy tạng dẫn vào nuôi tế bào, đường còn thừa nằm trong máu được thận điều chỉnh do chức năng lớp giữa của vỏ thượng thận giữ mức đường huyết trong máu trở lại tiêu chuẩn đói 100-140mg/dL, dư thừa được thận lọc thải ra theo nước tiểu, nên dân gian gọi là đái tháo đường là dấu hiệu của chức năng thận còn tốt, do đó tế bào được cung cấp đủ đường để hoạt động giúp cơ thể khỏe mạnh không bệnh tật.
Nguồn B là nguồn đường rút từ trong cơ thể vào máu cho tim và não hoạt động, vì do kiêng đường, thức ăn không có đường hay ít đường, lại bị thuốc hạ đường làm thiếu đường trong máu, nên gan tự động rút 100g đường glycogen dự trữ biến đổi lại thành glucose âm, là đường cho năng lượng hoạt động mà không có nhiệt lượng, đo pH nước bọt ngả về acid, và nếu gan cung cấp đường cho não và tim chưa đủ gan rút từ mỡ chuyển hóa thành đường ketone giúp tim não duy trì chức năng hoạt động...một mặt chúng ta kiêng ngọt, ăn bớt lượng tinh bột, ăn nhiều rau củ, ít chất béo lâu dần cơ thể hết đường glycogen dự trữ, hết mỡ dự trữ, thân xác gầy ốm, không đủ đường cho não và tim hoạt động, thì thay vì glucose phải được insulin dẫn đường vào nuôi hàng tỷ tế bào, thì ngược lại, trong tế bào cơ bắp, trong xương tủy lại bị rút glucose ra khỏi tế bào để cung cấp cho tim và não duy trì sự sống cho chúng ta, đó là nguyên nhân rối loạn chức năng chuyển hóa đường. Đường trong tế bào rút ra bao nhiêu lại bị insulin ngoại là thuốc làm hạ đường, cướp giựt mất không đủ cho tim não hoạt động, cuối cùng mỗi ngày cơ thể phải phân hủy chất béo thành các phân tử hữu cơ gọi là ketone, khi miệng có mùi của trái cây lên men rượu, là gan đã bị nhiễm acid acétone là một trong ba loại của ketone, cũng giống như người nghiện rượu ít ăn cơm mà chỉ thay cơm bằng rượu, thì gan cũng bị nhiễm toan acétone, thử pH nước bọt là acid, thử pH nước tiểu hàm lượng kétone cao, cũng làm cho men gan tăng cao gây ra những bệnh viêm gan siêu vi.
Đối với bệnh tiểu đường, nếu không dùng thuốc hạ đường, cơ thể không bị phân hủy hết chất béo thì gan không tích lũy acétone qúa cao, thì không bị ung thư. Công thức của glucose là C6H12O6, công thức của rượu C2H6O, công thức của acétone C3H6O.
Đường hóa dạng tinh bột làm suy thận, là đường bị phân hủy bởi 1 đơn vị nước H2O, trở thành tinh bột có công thức C6H10O5.
Còn đường bị thuốc hạ đường phân hủy, làm rối loạn chuyển hóa đường, cũng làm rối loạn chức năng của nhà máy hóa chất của gan, bị gan phân hủy thành 2 đơn vị acétone 2C3H6O + 2O2.
Theo đông y, gan chứa lượng máu, mỡ, đường, chúng ta không cung cấp đủ đường, đủ chất béo, ngược lại còn mất đi do thuốc hạ đường, khiến cơ thể gầy ốm, cơ thể thiếu năng lượng, làm suy thận suy gan từng ngày từng giờ, và chúng ta lầm lẫn tin vào máy thử đường vẫn cao, dù kiêng ăn đường, ăn béo, ăn ít cơm, chỉ ăn rau củ qủa người càng gầy ốm suy nhược mất sức dần, sụt cân, thiếu lượng máu, thiếu đường, pH acid, là dấu hiệu ung thư, chúng ta có biết đâu rằng đường cao là đường rút ra từ các tế bào da thịt xương tủy, chính thủ phạm là insulin ngoại tiêm hay uống vào cơ thể do cách chữa bệnh tiểu đường sai lầm của các thầy thuốc, cho đến khi chúng ta chết vì cách chữa bệnh tiểu đường đúng quy trình theo cách nói của thầy thuốc VN.
Còn cách nói khoa học là ngộ độc acetone có thể xảy ra khi có một lượng ketone cao bất thường. Đây là một tình trạng được gọi là ketoacidosis gây ung thư hay chết người do tiếp xúc với chất sơn móng tay, do uống rượu, do cách chữa tiểu đường theo phương pháp ketone ăn kiêng chỉ ăn rau củ quả kèm theo thuốc hạ đường, có biết đâu rằng đo đường huyết vẫn cao do nhu cầu tim não cần đường để duy trì mạng sống cho chúng ta.
Ngày xưa không có bệnh tiểu đường, nhưng nạn đói kéo dài cũng có thể dẫn đến nhiễm toan cetone do cơ thể cạn kiệt nhiên liệu, cơ thể bắt đầu phân hủy chất béo được lưu trữ thành ketone. Nồng độ ketone trong máu có thể tích lũy nhanh chóng và phát triển cao làm chết não, tim ngưng đập.
Riêng trường hợp ung thư gan do uống rượu, ngoài việc rượu làm đường huyết thấp, gan phải chuyển hóa mỡ trong gan thành năng lượng ketone thì đường chuyển hóa từ chất béo cũng trở thành cétone, ngoài ra làm men gan tăng cao, và chất andehyde và metanol trong rượu làm hại gan và não, những vi khuẩn phát sinh trong gan bị chức năng mật đào thải trở thành amoniac theo nước tiểu ra ngoài, nên những người uống rượu có dấu hiệu ung thư gan thì trong người phát ra mùi khai của nước tiểu .
2-Cách phòng ngừa và điều trị bệnh nhiễm toan acétone.
Không có thuốc chữa bệnh nào cho bệnh ngộ độc acetone. Phản ứng tự nhiên của cơ thể là tăng nhịp thở để loại bỏ các acid tích tụ trong máu. Bác sĩ có thể chèn một ống trong đường hô hấp (đặt nội khí quản) để giúp cho bệnh nhân thở. Nếu bị bệnh nặng, cơ thể càng thiếu oxy, áp huyết tâm thu khí lực thấp, thông thường, các bác sĩ cũng sẽ truyền dịch.
A-6 Dấu hiệu suy giảm chức năng gan
Gan là cơ quan quan trọng trong việc bảo tồn sức khỏe của con người. Khi cơ quan này bị tổn thương, virus tấn công hay phải làm việc cật lực, quá sức, mắc bệnh mãn tính,… sẽ không được bình thường và người ta gọi là suy giảm chức năng gan.
Nếu như chúng ta đang khỏe mạnh mà lại phát hiện ra 6 dấu hiệu dưới đây thì sức khỏe gan đang có vấn đề cần được điều trị:
1.Bị rối loạn tiêu hóa
Dấu hiệu đầu tiên thường hay gặp nhất là đi đại tiện nhiều lần, bất thường, có phân lỏng, mệt mỏi, chán ăn vì ăn không thấy ngon miệng. Một là cơ thể bị vấn đề về tiêu hóa, hai là gan đang có dấu hiệu không tốt
2. Dấu hiệu ngoài da.
Suy giảm chức năng gan thì màu da, màu mắt và móng tay chân sẽ thay đổi biến sắc thành màu vàng dễ nhận thấy rõ.
3.Mắt không khỏe
Khi gan bị suy giảm chức năng mắt cũng bị ảnh hưởng là quầng mắt bị thâm, nhanh mỏi mắt
4.Mùi hơi thở nặng
Nếu ai có hơi thở hay nặng mùi so với bình thường, có khi là do răng miệng, có khi bị suy giảm chức năng gan giải độc cho cơ thể không tốt, dẫn tới hơi thở nặng mùi cétone hay mùi khai bởi rối loạn trong hệ tiêu hóa làm vi khuẩn có điều kiện để phát triển mạnh hơn.
5.Gan bị to và trướng bụng
Tiếp nhận quá nhiều chất độc thì gan sẽ không kịp giải độc, tích lũy nhiều nước thải trong gan, gan to lên, dấu hiệu gan lớn, bị trướng bụng thường đi kèm với việc bị vàng da, dạ dày sẽ trương phình.
6.Một số dấu hiệu khác
Bên cạnh đó thì còn có một số dấu hiệu khác như số lượng tiểu cầu bị giảm và thiếu hụt các yếu tố đông máu, hậu quả của việc này là các đám xuất huyết hoặc bầm tím xuất hiện trên da, có thể xuất hiện ngay cả sau khi bị va đụng nhẹ hoặc tự nhiên, cũng có thể gây rụng tóc và các biến loạn ở móng tay, móng chân như bạch sản móng, mất móng.
B-Những bệnh về gan .
1-Viêm gan:
Viêm gan, thường do các loại virus như viêm gan A, B và C. Viêm gan có thể có nguyên nhân không nhiễm trùng, bao gồm uống nhiều rượu, thuốc, dị ứng hoặc béo phì.
2-Xơ gan:
Tổn thương gan lâu dài do mọi nguyên nhân có thể dẫn đến sẹo vĩnh viễn, được gọi là xơ gan. Gan sau đó không thể hoạt động tốt.
3-Ung thư gan:
Loại ung thư gan phổ biến nhất, ung thư biểu mô tế bào gan, hầu như luôn xảy ra sau khi bị xơ gan.
4-Suy gan:
Suy gan có nhiều nguyên nhân bao gồm nhiễm trùng, bệnh di truyền và rượu quá mức.
5-Cổ trướng:
Khi kết quả xơ gan, gan rò rỉ chất lỏng (cổ trướng) vào bụng, trở nên căng thẳng và nặng nề.
6-Sỏi mật:
Nếu sỏi mật bị kẹt trong ống mật dẫn lưu gan, viêm gan và nhiễm trùng ống mật (viêm đường mật) có thể dẫn đến ung thư.
7-Hemochromatosis:
Hemochromatosis cho phép sắt lắng đọng trong gan, gây hại cho gan. Chất sắt cũng lắng đọng khắp cơ thể, gây ra nhiều vấn đề sức khỏe khác.
8-Viêm đường mật xơ cứng tiên phát:
Một bệnh hiếm gặp không rõ nguyên nhân, viêm đường mật xơ cứng nguyên phát gây viêm và sẹo trong các ống mật trong gan.
9-Xơ gan mật nguyên phát:
Trong rối loạn hiếm gặp này, một quá trình không rõ ràng sẽ dần dần phá hủy các ống dẫn mật trong gan. Sẹo gan vĩnh viễn (xơ gan) cuối cùng phát triển.
10-Ngộ độc acetone.
Ngộ độc acetone xảy ra khi có nhiều acetone trong gan có thể bị phá vỡ.
Mỗi ngày, cơ thể bạn phân hủy chất béo thành các phân tử hữu cơ gọi là ketone. Acetone là một trong ba loại cơ thể ketone. Gan tạo ra ketone để sử dụng chúng làm nhiên liệu. Tuy nhiên, tích lũy ketone trong cơ thể nhiều có thể nguy hiểm. Ngộ độc acetone có thể xảy ra khi có một lượng ketone cao bất thường. Đây là một tình trạng được gọi là ketoacidosis.
Những người mắc bệnh tiểu đường loại 1 hoặc loại 2, có thể bị nhiễm ketoacidosis nếu không điều trị tiểu đường của mình đúng cách.
Nạn đói kéo dài cũng có thể dẫn đến nhiễm toan cetone. Trong trường hợp đó, cơ thể cạn kiệt nguền nguyên liệu carbohydrate từ thức ăn vào cơ thể thì gan phải tự phân hủy chất béo được lưu trữ thành ketone. Nồng độ ketone trong máu có thể tích lũy nhanh chóng và phát triển cao nguy hiểm.
Ngộ độc acetone có thể có các nguyên nhân khác, bao gồm:
Uống rượu bị say, tiếp xúc quá nhiều với sơn cụ thể trong không gian hạn chế, vô tình uống dung dịch tẩy rửa có chứa acetone, nước tẩy sơn móng tay.
IV-HAI NGUYÊN NHÂN QUAN TRỌNG GÂY UNG THƯ GAN DO NHIỄM CÉTONE BỞI THUỐC HẠ ĐƯỜNG VÀ RƯỢU.
Trong bài này chúng ta không đề cập đến ung thư gan do viêm gan siêu vi A, B, C, nhưng hiện nay ung thư gan rất nhiều không liên quan đến viêm gan siêu vi A,B, C mà liên quan đến nguyên nhân do uống rượu, và do thuốc hạ đường huyết khiến cho gan bị nhiễm cétone mà chúng ta chưa biết tại sao ?
1-Tại sao nguyên nhân ung thư gan do thuốc hạ đường huyết :
a-Đường Glucose cần thiết cho hoạt động của não, tim, và nuôi tế bào.
Nguồn gốc căn bản của tây y là các tế bào đều có 4 chất nuôi tế bào phát triển là glucose, protein, lipid, oxy. Trong tế bào nào cũng phải có glucose, như vậy hàng tỷ tế bào trong cơ thể phải dùng một số lượng lớn glucose mỗi ngày.
Một lý thuyết khác về não và tim, 2 cơ quan này chỉ cần đường glucose để hoạt động mà các đường khác không thể thay thế, thì chúng cần đến 180g glucose, trong đó não và thần kinh trung ương cần 144g glucose, còn tim cần 36g glucose, vì thế Hội Tim Mạch Hoa Kỳ cảnh báo muốn tim hoạt động tốt mỗi ngày tim cần 6 thìa cà phê đường glucose cho nữ hay 9 thìa cho nam, không thể thiếu được.
Khoa học cũng chứng minh trọng lượng thức ăn hàng ngày, từ cơm gạo, tinh bột, rau củ quả thực vật hay động vật, được bộ tiêu hóa chắt lọc được 80% là đường các loại, thì số lượng đường này phải đủ nhu cầu chính cho tim và não
trước đã, là 180g là 80%, thì thức ăn ít nhất phải nặng hơn, vừa nuôi não, tim và hàng tỷ tế bào trong toàn thân, nên mỗi bữa ăn phải trên 500g.
d-Do nhu cầu tim và não cần đường glucose, khi chúng ta ăn nhiều đường, phải theo đúng tiêu chuẩn đói-no của Y Tế Thế Giới năm 1979 hay năm 2018 là tiêu chuẩn đường bảo vệ tim mạch và não hoạt động tốt.
Tiêu chuẩn đường-huyết khi đói từ 100-140mg/dL, tiêu chuẩn no sau khi ăn 30 phút từ 140-200mg/dl theo năm 1979, hay từ 140-180mg/dl theo năm 2018.
Còn tiêu chuẩn đường huyết ngành y tế đang áp dụng không có tiêu chuẩn no, và tiêu chuẩn đường lại bị hạ thấp, mục đích tạo ra nhiều người bị bệnh để trục lợi, đo đường huyết chỉ được quyền thấp dưới 126mg/dL=7mmol/l, nếu cao hơn là bị bệnh tiểu đường phải dùng thuốc hạ đường, nên đường trong cơ thể lúc nào cũng thiếu làm suy yếu chức năng thần kinh não bộ, suy tim và không đủ glucose nuôi hàng tỷ tế bào.
Tại sao chúng ta không thắc mắc, nếu tôi bị bệnh tiểu đường, lại kiêng đường, và còn uống thuốc hạ đường, sau khi đường huyết xuống thấp rồi lại tăng cao hơn tiêu chuẩn 126mg/dL, nên cứ phải dùng thuốc hạ đường suốt đời, và sức khỏe càng yếu, càng mất sức ? Như vậy đường ở đâu ra, mà thử đường huyết vẫn cao ?
Để giải thích câu hỏi này, trước hết chúng ta phải chấp nhận não và tim phải cần đường mỗi ngày, để lúc nào đo đường huyết khi đói phải nằm trong tiêu chuẩn 100-140mg/dL, khi no phải từ 140-180mg/dL, như vậy phải có một trong 2 nguồn cung cấp đường cho não, tim và hàng tỷ tế bào trong cơ thể.
Nguồn A là nguồn đường từ bên ngoài cơ thể vào, do ăn uống thức ăn có đường, tạm gọi là đường dương đi vào cơ thể, muốn biết đường có vào cơ thể đủ hay không sau khi ăn 30 phút đo đường huyết phải từ 140-180mg/dl, nếu không đủ phải uống thêm nước mía, hay pha 1-2 thìa canh mật mía với 1 ly 250cc nước ấm uống thêm, khi đo pH nước bọt phải trung tính 7-8 nghiêng về kiềm. Sau 2 giờ glucose được insulin nội là insulin có sẫn trong tụy tạng dẫn vào nuôi tế bào, đường còn thừa nằm trong máu được thận điều chỉnh do chức năng lớp giữa của vỏ thượng thận giữ mức đường huyết trong máu trở lại tiêu chuẩn đói 100-140mg/dL, dư thừa được thận lọc thải ra theo nước tiểu, nên dân gian gọi là đái tháo đường là dấu hiệu của chức năng thận còn tốt, do đó tế bào được cung cấp đủ đường để hoạt động giúp cơ thể khỏe mạnh không bệnh tật.
Nguồn B là nguồn đường rút từ trong cơ thể vào máu cho tim và não hoạt động, vì do kiêng đường, thức ăn không có đường hay ít đường, lại bị thuốc hạ đường làm thiếu đường trong máu, nên gan tự động rút 100g đường glycogen dự trữ biến đổi lại thành glucose âm, là đường cho năng lượng hoạt động mà không có nhiệt lượng, đo pH nước bọt ngả về acid, và nếu gan cung cấp đường cho não và tim chưa đủ gan rút từ mỡ chuyển hóa thành đường ketone giúp tim não duy trì chức năng hoạt động...một mặt chúng ta kiêng ngọt, ăn bớt lượng tinh bột, ăn nhiều rau củ, ít chất béo lâu dần cơ thể hết đường glycogen dự trữ, hết mỡ dự trữ, thân xác gầy ốm, không đủ đường cho não và tim hoạt động, thì thay vì glucose phải được insulin dẫn đường vào nuôi hàng tỷ tế bào, thì ngược lại, trong tế bào cơ bắp, trong xương tủy lại bị rút glucose ra khỏi tế bào để cung cấp cho tim và não duy trì sự sống cho chúng ta, đó là nguyên nhân rối loạn chức năng chuyển hóa đường. Đường trong tế bào rút ra bao nhiêu lại bị insulin ngoại là thuốc làm hạ đường, cướp giựt mất không đủ cho tim não hoạt động, cuối cùng mỗi ngày cơ thể phải phân hủy chất béo thành các phân tử hữu cơ gọi là ketone, khi miệng có mùi của trái cây lên men rượu, là gan đã bị nhiễm acid acétone là một trong ba loại của ketone, cũng giống như người nghiện rượu ít ăn cơm mà chỉ thay cơm bằng rượu, thì gan cũng bị nhiễm toan acétone, thử pH nước bọt là acid, thử pH nước tiểu hàm lượng kétone cao, cũng làm cho men gan tăng cao gây ra những bệnh viêm gan siêu vi.
Đối với bệnh tiểu đường, nếu không dùng thuốc hạ đường, cơ thể không bị phân hủy hết chất béo thì gan không tích lũy acétone qúa cao, thì không bị ung thư. Công thức của glucose là C6H12O6, công thức của rượu C2H6O, công thức của acétone C3H6O.
Đường hóa dạng tinh bột làm suy thận, là đường bị phân hủy bởi 1 đơn vị nước H2O, trở thành tinh bột có công thức C6H10O5.
Còn đường bị thuốc hạ đường phân hủy, làm rối loạn chuyển hóa đường, cũng làm rối loạn chức năng của nhà máy hóa chất của gan, bị gan phân hủy thành 2 đơn vị acétone 2C3H6O + 2O2.
Theo đông y, gan chứa lượng máu, mỡ, đường, chúng ta không cung cấp đủ đường, đủ chất béo, ngược lại còn mất đi do thuốc hạ đường, khiến cơ thể gầy ốm, cơ thể thiếu năng lượng, làm suy thận suy gan từng ngày từng giờ, và chúng ta lầm lẫn tin vào máy thử đường vẫn cao, dù kiêng ăn đường, ăn béo, ăn ít cơm, chỉ ăn rau củ qủa người càng gầy ốm suy nhược mất sức dần, sụt cân, thiếu lượng máu, thiếu đường, pH acid, là dấu hiệu ung thư, chúng ta có biết đâu rằng đường cao là đường rút ra từ các tế bào da thịt xương tủy, chính thủ phạm là insulin ngoại tiêm hay uống vào cơ thể do cách chữa bệnh tiểu đường sai lầm của các thầy thuốc, cho đến khi chúng ta chết vì cách chữa bệnh tiểu đường đúng quy trình theo cách nói của thầy thuốc VN.
Còn cách nói khoa học là ngộ độc acetone có thể xảy ra khi có một lượng ketone cao bất thường. Đây là một tình trạng được gọi là ketoacidosis gây ung thư hay chết người do tiếp xúc với chất sơn móng tay, do uống rượu, do cách chữa tiểu đường theo phương pháp ketone ăn kiêng chỉ ăn rau củ quả kèm theo thuốc hạ đường, có biết đâu rằng đo đường huyết vẫn cao do nhu cầu tim não cần đường để duy trì mạng sống cho chúng ta.
Ngày xưa không có bệnh tiểu đường, nhưng nạn đói kéo dài cũng có thể dẫn đến nhiễm toan cetone do cơ thể cạn kiệt nhiên liệu, cơ thể bắt đầu phân hủy chất béo được lưu trữ thành ketone. Nồng độ ketone trong máu có thể tích lũy nhanh chóng và phát triển cao làm chết não, tim ngưng đập.
Riêng trường hợp ung thư gan do uống rượu, ngoài việc rượu làm đường huyết thấp, gan phải chuyển hóa mỡ trong gan thành năng lượng ketone thì đường chuyển hóa từ chất béo cũng trở thành cétone, ngoài ra làm men gan tăng cao, và chất andehyde và metanol trong rượu làm hại gan và não, những vi khuẩn phát sinh trong gan bị chức năng mật đào thải trở thành amoniac theo nước tiểu ra ngoài, nên những người uống rượu có dấu hiệu ung thư gan thì trong người phát ra mùi khai của nước tiểu .
2-Cách phòng ngừa và điều trị bệnh nhiễm toan acétone.
Không có thuốc chữa bệnh nào cho bệnh ngộ độc acetone. Phản ứng tự nhiên của cơ thể là tăng nhịp thở để loại bỏ các acid tích tụ trong máu. Bác sĩ có thể chèn một ống trong đường hô hấp (đặt nội khí quản) để giúp cho bệnh nhân thở. Nếu bị bệnh nặng, cơ thể càng thiếu oxy, áp huyết tâm thu khí lực thấp, thông thường, các bác sĩ cũng sẽ truyền dịch.
V-DẤU HIỆU UNG THƯ GAN :
1-Sưng bụng :
Cổ trướng hoặc sưng bụng là dấu hiệu đặc biệt của ung thư gan do sự tích tụ chất lỏng trong khoang màng bụng khi các tế bào bí trục trặc trở thành tế bào ung thư.
2-Lá lách sưng phồng :
Trong giai đoạn tiến triển của ung thư gan, thì gan hoặc lá lách có thể sưng phồng thành khối dưới sườn phải bên gan hay sườn trái bên lái lách., gây ra chạm vào các vùng mềm.
3-Vàng da :
Ung thư gan có thể vàng da, lòng mắt trắng, sứ đổi mầu xảy ra do dư thừa chất vàng cam gọi là bilirubin trong máu, chất này có trong hồng cầu, khi hồng cầu chết, gan lọc nó ra khỏi máu vào chất thải. Khi gan có khối u ác tính, gan mất dần khả năng lọc bilirubin nên gây ra vàng da.
4-Đau bụng :
Ung thư gan có dấu hiệu đau ở vùng bụng trên từ nhẹ đến mức trung bình do cổ trướng hay chất lỏng tích tụ gây ra áp lực lên niêm mạc bao tử khi bụng bị căng nặng, khi gan lách sưng, nhất là sau các bữa ăn.
5. Mất cảm giác ngon miệng
Mất cảm giác ngon miệng là triệu chứng sớm của suy gan. Khi chức năng trao đổi chất của cơ thể bị tổn hại, bị giảm ham muốn ăn uống và bữa ăn có thể ngày càng nhỏ dần theo thời gian dẫn đến thiếu hụt chất dinh dưỡng,
6. Phân bất thường
Khi có vấn đề với hệ thống thoát nước trong hệ thống mật, chất lượng của phân thay đổi. Khối u trong gan gây suy giảm chức năng gan. Muối mật thường được gan thải vào phân, làm cho nhu động ruột có màu bình thường. Việc thiếu các muối này làm cho phân có vẻ nhợt nhạt, trắng hoặc phấn thường xuyên là dấu hiệu ung thư gan.
7. Ngứa da
Ngứa có thể được gây ra bởi điều trị ung thư (tức là hóa trị liệu) hoặc chính ung thư, do cơ thể đã giảm khả năng loại bỏ một số độc tố.
8. Buồn nôn
Khối u trong gan có thể gây ra các cơn buồn nôn thường xuyên sau bữa ăn. Do gan không thể thực hiện chức năng trao đổi chất một cách chính xác, những rối loạn tiêu hóa như vậy có thể xảy ra.
9. Giảm cân ngoài ý muốn
Một trong những dấu hiệu sớm của suy gan là buồn nôn tái phát, đặc biệt là sau bữa ăn. Chán ăn nên thiếu nguồn cung cấp dinh dưỡng dẫn đến giảm cân nhanh chóng và ngoài ý muốn trong một vài tháng. Mất cơ bắp của những người bị ung thư cũng dẫn đến giảm cân nhanh.
10. Tiêu chảy
Suy gan cũng khiến người ta dễ bị tiêu chảy. Các chức năng trao đổi chất bị tổn hại do chức năng gan giảm, và dẫn đến chứng khó tiêu có thể gây ra suy ruột ngoài buồn nôn và thiếu thèm ăn. Những người có cấu tạo yếu tự nhiên và khả năng miễn dịch thấp đặc biệt dễ bị dấu hiệu này
11. Dễ chảy máu
Bệnh gan có xu hướng chảy máu thường xuyên hơn và quá mức do gan không thể sản xuất đủ các yếu tố đông máu để duy trì toàn bộ cơ thể. Hậu quả là tổn thương nhỏ nhất có thể chảy máu nhiều, và chảy máu mũi hoặc nướu là phổ biến và thường xuyên hơn. Trong một số ít trường hợp, thậm chí chảy máu bên trong ở các khu vực như đường tiêu hóa có thể xảy ra.
12. Nhầm lẫn tinh thần
Suy gan gây ra bệnh não gan, mọi người có thể gặp vấn đề với chức năng và hoạt động tâm thần. Tâm lý nhầm lẫn phát triển do bất thường chuyển hóa. Một người có thể bị giảm khả năng thực hiện các nhiệm vụ tinh thần, tham gia vào suy nghĩ trừu tượng và duy trì sự chú ý. Trong một số trường hợp, lời nói cũng có thể trở nên khó hiểu.
13. Buồn ngủ
Buồn ngủ là một dấu hiệu sớm của bệnh não gan được kích thích bởi sự khởi đầu của suy gan. Mệt mỏi quá mức là phổ biến hơn ở những người bị suy gan tiến triển hoặc mãn tính. Tuy nhiên, buồn ngủ cực độ kết hợp với các triệu chứng khác có thể chỉ ra suy gan cấp tính.
14. Hôn mê
Trong giai đoạn rất tiến triển của cả suy gan mạn tính và cấp tính, bệnh nhân có thể bị hôn mê. Hôn mê xảy ra khi tổn thương gan ảnh hưởng đến chức năng não. Rất nhiều người mắc bệnh gan tiến triển biểu hiện hành vi bất hợp lý và bất thường như cơn thịnh nộ, khó hiểu về tinh thần, mất phương hướng rõ rệt và hoang tưởng trước khi cuối cùng rơi vào hôn mê.
15. Khó chịu
Những người bị suy gan thường than phiền về sự mệt mỏi, yếu đuối và cảm giác chung về sức khỏe kém hoặc khó chịu. Chức năng trao đổi chất thất bại tạo ra triệu chứng này khi nó ảnh hưởng đến cả mức năng lượng và chức năng não.
VI-CÁC LOẠI UNG THƯ GAN THEO TÂY Y.
1-Các loại bệnh ung thư gan:
- Ung thư biểu mô tế bào gan (Hepatocellular carcinoma - HCC): Đây là loại ung thư gan nguyên phát phổ biến nhất xảy ra ở cả trẻ em và người lớn bắt đầu trong tế bào gan.
- Ung thư đường mật (Cholangiocarcinoma): Đây là loại ung thư bắt đầu trong các ống nhỏ như ống dẫn mật trong gan, đôi khi được gọi là ung thư ống dẫn mật.
- U nguyên bào gan (Hepatoblastoma): Ung thư gan hiếm gặp xảy ra trên trẻ em dưới 4 tuổi.
- U máu ác tính (Angiosarcoma hoặc hemangiosarcoma): Ung thư hiếm gặp bắt đầu từ các mạch máu của gan phát triển rất nhanh.
2- Các giai đoạn của ung thư gan:
- Giai đoạn I: Khối u đơn lẻ chưa xâm lấn vào bất kỳ mạch máu nào.
- Giai đoạn II: Khối u đơn lẻ đã xâm lấn vào các mạch máu lân cận, hoặc có thể có nhiều khối u nhỏ trong gan.
- Giai đoạn III: Nhiều khối u lớn, hoặc một khối u lớn đã xâm lấn tĩnh mạch chính của gan hoặc xâm lấn các tổ chức lân cận, chẳng hạn như túi mật.
- Giai đoạn IV: Ung thư đã lan ra ngoài gan đến các vùng khác của cơ thể.
VII-CÁCH THỬ pH NƯỚC TIỂU ĐỂ TÌM BỆNH VÀ PHÒNG NGỪA UNG THƯ GAN
Chúng ta có thể ra tiệm thuốc tây tìm mua 1 hộp que thử pH nước tiểu để phát hiện sớm được bệnh
A-11 chỉ số trong xét nghiệm nước tiểu
1-Leukocytes (LEU ca):
Tế bào bạch cầu, bình thường âm tính; chỉ số cho phép: 10-25 Leu/UL. Khi nước tiểu có chứa bạch cầu, thai phụ có thể đang bị nhiễm khuẩn hoặc nấm (có giá trị gợi ý nhiễm trùng tiểu chứ không khằng định được). Trong quá trình chống lại các vi khuẩn xâm nhập, một số hồng cầu đã chết và thái ra đường tiểu. nên cần xét nghiệm nitrite để xác định vi khuẩn gây viêm nhiễm.
2-Nitrate (NIT):
Thường dùng để chỉ tình trạng nhiễm trùng đường tiểu. – bình thường âm tính. chỉ số cho phép: 0.05-0.1 mg/dL. Vi khuẩn gây nhiễm trùng đường niệu tạo ra 1 loại enzyme có thể chuyển nitrate niệu ra thành nitrite. Do đó nếu như tìm thấy nitrite trong nước tiểu có nghĩa là có nhiễm trùng đường niệu. Nếu dương tính là có nhiễm trùng nhất là loại E. Coli.
3-Urobilinogen (UBG):
Dấu hiệu cho thấy có bệnh lý ở gan hay túi mật, bình thường không có. Chỉ số cho phép: 0.2-1.0 mg/dL hoặc 3.5-17 mmol/L, đây là sản phẩm được tạo thành từ sự thoái hóa của bilirubin. Nó cũng được thải ra ngoài cơ thể theo phân. Chỉ có một lượng nhỏ urobilinogen có trong nước tiểu. Urobilinogen có trong nước tiểu có thể là dấu hiệu của bệnh về gan (xơ gan, viêm gan) làm dòng chảy của dịch mật từ túi mật bị nghẽn.
4-Protein (pro) đạm :
Dấu hiệu cho thấy có bệnh lý ở thận, có máu trong nước tiểu hay có nhiễm trùng, bình thường không có chỉ số cho phép: trace (vết: không sao); 7.5-20mg/dL hoặc 0.075-0.2 g/L. Nếu xét nghiệm phát hiện trong nước tiểu chứa protein, tình trạng của thai phụ có thể liên quan đến các chứng: thiếu nước, mẫu xét nghiệm chứa dịch nhầy, nhiễm trùng đường tiểu, tăng huyết áp, có vấn đề ở thận… Vào giai đoạn cuối thai kỳ, nếu lượng protein nhiều trong nước tiểu, thai phụ có nguy cơ bị tiền sản giật, nhiễm độc huyết. Nếu thai phụ phù ở mặt và tay, tăng huyết áp (cao hơn 140/90mmHg), phải cần được kiểm tra chứng tiền sản giật ngay. Ngoài ra, nếu chất albumin (một loại protein) được phát hiện trong nước tiểu cũng cảnh báo thai phụ có nguy cơ nhiễm độc thai nghén hoặc mắc chứng tiểu đường.
5-Chỉ số pH:
Đánh giá độ acid của nước tiểu, bình thường: 4,6 – 8. dùng để kiểm tra xem nước tiểu có tính chất acid hay base. pH=4 có nghĩa là nước tiểu có tính acid mạnh, pH=7 là trung tính (không phải acid, cũng không phải base) và pH=9 có nghĩa là nước tiểu có tính base mạnh.
6-Blood (BLD):
Dấu hiệu cho thấy có nhiễm trùng đường tiểu, sỏi thận, hay xuất huyết từ bàng quang hoặc bướu thận, bình thường không có, Chỉ số cho phép: 0.015. 0.062 mg/dL hoặc 5-10 Ery/ UL. Viêm, bệnh, hoặc tổn thương thận, niệu quản, bàng quang, niệu đạo có thể làm máu xuất hiện trong nước tiểu.
7-Specific Gravity (SG):
Đánh giá tỷ trọng nước tiểu loãng hay cô đặc (do uống quá nhiều nước hay do thiếu nước), bình thường: 1.005 – 1.030
8-Ketone (KET):
Dấu hiệu hay gặp ở bệnh nhân tiểu đường không kiểm soát, chế độ ăn ít chất carbohydrate, nghiện rượu, nhịn ăn trong thời gian dài. Bình thường không có hoặc đôi khi có ở mức độ thấp đối với phụ nữ mang thai, chỉ số cho phép: 2.5-5 mg/dL hoặc 0.25-0.5 mmol/L, đây là chất được thải ra ở đường tiểu, cho biết thai phụ và thai nhi đang thiếu dinh dưỡng hoặc mắc chứng tiểu đường. Khi phát hiện lượng ketone, kèm theo các dấu hiện chán ăn, mệt mỏi, thai phụ nên được bác sĩ chỉ định truyền dịch và dùng thuốc. Để giảm hết lượng ketone, thai phụ nên thư giãn, nghỉ ngơi và cố gắng không bỏ bất kỳ bữa ăn nào
9-Billirubin (BIL):
Dấu hiệu cho thấy có bệnh lý ở gan hay túi mật, bình thường không có, Chỉ số cho phép: 0.4-0.8 mg/dL hoặc 6.8-13.6 mmol/L, đây là sản phẩm được tạo thành từ sự thoái hóa của hồng cầu. Nó đi ra khỏi cơ thể qua phân. Billirubin bình thường không có trong nước tiểu. Nếu như billirubin xuất hiện trong nước tiểu nghĩa là gan đang bị tổn thương hoặc dòng chảy của mật từ túi mật bị nghẽn.
10-Glucose (Glu):
Dấu hiệu hay gặp ở bệnh nhân tiểu đường bình thường không có hoặc có thể có ở phụ nữ mang thai. Chỉ số cho phép: 50-100 mg/dL hoặc 2.5-5 mmol/L. Là một loại đường có trong máu. Bình thường thì trong nước tiểu sẽ không có hoặc có rất ít glucose. Khi đường huyết trong máu tăng rất cao, chẳng hạn như đái tháo đường không kiểm soát thì đường sẽ thoát ra nước tiểu. Glucose cũng có thể được tìm thấy bên trong nước tiểu khi thận bị tổn thương hoặc có bệnh.
11-ASC (Ascorbic Acid): Chất thải trong nước tiểu để đánh giá bệnh về thận, – chỉ số cho phép: 5-10 mg/dL hoặc 0.28-0.56 mmol/L. Nếu dùng nhiều thức ăn ngọt trước khi xét nghiệm, sự xuất hiện của hàm lượng glucose trong nước tiểu là điều bình thường. Nhưng nếu lượng đường ở lần xét nghiệm thứ hai cao hơn lần đầu, đây là dấu hiệu cảnh báo bạn có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường. Nếu có kèm các chứng mệt mỏi, luôn khát nước, sụt cân.
B-Phòng ngừa ung thư gan bằng cách giải độc cơ thể.
Gan là một cơ quan lọc độc rất quan trọng của cơ thể, tự nó có thể tái tạo sinh ra tế bào mới, và các tế bào bệnh hư hỏng không thể tồn tại lâu trong gan nếu chúng ta biết cách giúp nó phục hồi lại chức năng.
Theo sự nghiên cứu của các nhà khoa học tính đến tuổi thọ của các loại tế bào, họ cho rằng mỗi loại mô có thời gian quay vòng riêng, liên quan ít nhất một phần đến khối lượng công việc chịu đựng bởi các tế bào của nó. Các tế bào biểu bì, hình thành làn da dễ bị tổn thương của cơ thể, được tái chế hai tuần một lần. Các tế bào hồng cầu, trong chuyển động liên tục trên hành trình của chúng thông qua hệ thống tuần hoàn, chỉ kéo dài 120 ngày. Đối với gan, chất giải độc của cơ thể người, cuộc sống của các tế bào của nó khá ngắn - một tế bào gan người trưởng thành có thời gian quay vòng từ 300 đến 500 ngày.
Các tế bào lót trên bề mặt ruột, được biết đến bằng các phương pháp khác chỉ tồn tại trong năm ngày, là một trong những loài sống ngắn nhất trong toàn bộ cơ thể.
1-Các cách giải độc :
Trước khi tìm hiểu uống gì giải độc cơ thể, nên loại bỏ bớt các chất độc ra khỏi cơ thể bằng việc loại bỏ rượu bia, cà phê, thuốc lá cũng như là các chất béo bão hòa. Bên cạnh đó, nên loại bỏ các chất tẩy rửa cũng như sản phẩm chăm sóc cá nhân có nguồn gốc hóa chất, nên thay vào đó là các sản phẩm có nguồn gốc từ tự nhiên.
a- Cách giải độc cơ thể hiệu quả nhất bằng việc uống nhiều nước và trà thảo dược
Không có cách giải độc cơ thể hiệu quả nhất nào bằng việc uống nước mía, hoặc nước chanh đường mỗi ngày. Để cung cấp chính xác lượng nước uống giải độc cơ thể cần thiết, có thể căn cứ vào trọng lượng thực tế của mình bằng cách lấy cân nặng nhân cho hệ số 0.033.
Chẳng hạn người có cân nặng 54kg thì cần bổ sung khoảng
54 x0.033=1.782 lít nước mỗi ngày.
b- Cách giải độc cơ thể hiệu quả nhất bằng rau xanh
Ăn nhiều rau xanh cũng là cách giải độc cơ thể hiệu quả nhất, tuy nhiên lượng rau xanh trong khẩu phần ăn hàng ngày lại chưa đủ để giúp cơ thể loại bỏ độc tố. Nên mua rau xanh về làm nước ép uống để giải độc nhanh chóng.
c- Cung cấp lợi khuẩn (probiotics)
Theo như các nghiên cứu được đưa trên tạp chí dinh dưỡng cho biết, các lợi khuẩn có vai trò tích cực trong việc loại bỏ các độc tố kim loại nặng và những vi khuẩn có hại ra khỏi cơ thể người. Đồng thời các lợi khuẩn này còn giúp tăng cường khả năng miễn dịch của cơ thể, giúp chống lại quá trình oxy hóa và chống lão hóa da hiệu quả.
Chúng ta có thể bổ sung lợi khuẩn qua các nước uống giải độc cơ thể, thực phẩm như sữa chua, hoa quả hoặc các đồ uống lên men,…
d- Cách giải độc cơ thể hiệu quả bằng cách cho toát mồ hôi như xông hơi, thể dục.
Xông hơi hồng ngoại là một trong những cách giải độc cơ thể hiệu quả nhất, bởi phương pháp này giúp loại bỏ các độc tố kim loại nặng cũng như các hóa chất độc hại bằng cơ chế bài tiết mồ hôi qua da. Theo như các nghiên cứu y học đã chứng mình thì đa phần các độc tố đều có khả năng bị đào thải qua da, nhờ đó giúp làm giảm bớt áp lực công việc của gan và thận đảm nhiệm.
e- Cách giải độc cơ thể hiệu quả bằng cách sử dụng muối tắm Epsom
Muối tắm Epsom được biết là có khả năng kiểm soát hoạt động của hơn 325 loại enzym và đóng vai trò quan trọng trong việc loại bỏ những độc tố có hại. Trong muối Epsom có chứa 2 thành phần chính là magie và Sulphate có thể thẩm thấu dễ dàng qua da, từ đó giúp đào thải và loại bỏ các kim loại nặng ra khỏi cơ thể nhanh chóng.
f- Nhảy trên tấm bạt lò xo cũng là một cách giải độc cơ thể hiệu quả
Đây là trò chơi yêu thích của trẻ nhỏ nhưng nó lại là một cách giải độc cơ thể hiệu quả nhất cho cả cha mẹ. Việc chuyển động thẳng đứng và bay nhảy trên tấm bạt lò xo sẽ giúp cho hoạt động của hệ bạch huyết tích cực hơn, thúc đẩy sự chăm sóc cho từng các tế bào và mang nguồn dinh dưỡng dồi dào đến các tế bào và loại bỏ các chất độc hại.
g- Cách giải độc cơ thể hiệu quả bằng việc làm sạch ruột già
Làm sạch ruột già để loại bỏ các chất độc hiệu quả và cải thiện chất lượng vi khuẩn có trong đường ruột. Chỉ trong 5 phút với 4 nguyên liệu có sẵn trong bếp sau đây:
Nguyên liệu cần chuẩn bị: 1/2 ly nước ép táo, 2 thìa nước cốt chanh, 1 thìa nước ép gừng, 1/2 thìa muối biển và 1/2 ly nước ấm.
Cách thực hiện: Đun 100ml nước với lửa nhỏ, không đun sôi. Sau đó cho nước uống giải độc cơ thể ra ly và bỏ muối biển vào khuấy đều. Cuối cùng cho nước ép táo, gừng và chánh vào khuấy đều là xong.
Nên dùng đồ uống này vào buổi sáng, trưa và giữa chiều, mỗi lần là một ly, dùng liên tục trong 1 tuần để thải độc ruột già hiệu quả. Nhớ lưu ý là dùng vào buổi sáng thì dùng lúc trước khi ăn sáng.
Công việc chính của gan là lọc máu từ đường tiêu hóa, trước khi đưa nó đến phần còn lại của cơ thể. Gan cũng giải độc hóa chất và chuyển hóa thuốc. Khi nó làm như vậy, gan tiết ra mật cuối cùng trở lại trong ruột. Gan cũng làm cho protein quan trọng đối với quá trình đông máu và các chức năng khác.
VIII-PHÒNG NGỪA VÀ CÁCH CHỮA UNG THƯ THEO KCYĐ
Chúng ta đã biết nguyên nhân các loại ung thư đều do cơ thể suy yếu do kiêng ăn, chán ăn, mất sức, bệnh mãn tính kéo dài, do thuốc có nhiều độc tố phá hoại các tế bào và chức năng của các cơ quan nội tạng, những hậu quả này theo bắt mạch của đông y sẽ nhận thấy tình trạng khí lực yếu dần, mất máu, mất hồng cầu, do suy dinh dưỡng, mất năng lượng, mất thân nhiệt làm hệ thống bảo vệ chống bệnh tật không còn hiệu lực.
Ba yếu tố khám phá ra bệnh ung thư của đông y bằng cách bắt mạch, thì đã được môn Khí Công Y Đạo thay bằng cách bắt mạch khám tìm nguyên nhân bệnh bằng máy đo áp huyết 2 tay và máy đo đường kiểm chứng tình trạng khí huyết trong cơ thể bệnh nhân, đều nhận thấy rằng, khi bệnh nhân còn khỏe mạnh, khí lực sung mãn, huyết lực đầy đủ, năng lượng đầy đủ, thì có số đo áp huyết và đo đường huyết nầm trong tiêu chuẩn tuổi như dưới đây :
Đây là bảng tiêu chuẩn áp huyết theo loại tuổi theo kinh nghiệm của khí công y đạo :
95-100/60-65mmHg, mạch tim đập 60-120 là áp huyết ở tuổi thiếu nhi.( 5-12 tuổi)
100-110/60-65mmHg, mạch tim đập 60-70 là áp huyết ởtuổi thiếu niên (13–17 tuổi)
110-120/65-70mmHg, mạch tim đập 65-70 là áp huyết ở tuổi thanh niên (18-40 tuổi)
120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75 là áp huyết ở tuổi trung niên (41-59 tuổi)
130-140/80-90mmHg, mạch tim đập 70-80 là áp huyết ở tuổi lão niên (60 tuổi trở lên)
Tiêu chuẩn mới về đường-huyết năm 2018 của các Đại Học Bác Sĩ Hoa Kỳ :
Trước khi ăn sáng: Người không bị tiểu đường 100mg/dL= 5,6mmol/l
Người bệnh tiểu đường 70-130mg/dL ( 3,9-7,2mmol/l )
2 giờ sau bữa ăn Người không bị tiểu đường: Dưới 140 mg / dL= 7,8mmol/l
Người mắc bệnh tiểu đường: Dưới 180 mg / dL= 10mmol/l
Trước khi đi ngủ người không bị tiểu đường: 120 mg / dL=6,7mmol/l
Người mắc bệnh tiểu đường: 90-150 mg / dL ( 5,0-8,3mmol/l )
Riêng kinh nghiệm của Môn Khí Công Y Đạo, trước khi đi ngủ đường huyết phải từ 130-150mg/dL trong đêm đường huyết sẽ tụt thấp cho đến khi trước khi ăn sáng sẽ thấp nhất là 100mg/dL sẽ an toàn, nếu trước khi đi ngủ đường huyết thấp 90mg/dL sẽ bị nguy hiểm khi ban đêm đường huyết tụt thấp khoảng 70-50mg/dL rơi vào hôn mê hoặc tử vong.
Khi chúng ta bị bệnh do hậu qủa của thuốc hạ đường huyết, do thuốc hạ áp huyết, do kiêng ăn chất ngọt, kiêng sợ đường, kiêng ăn nhiều cơm, chỉ ăn rau củ qủa, ai cũng nói là tốt cho sức khỏe, vì theo xét nghiệm máu của tây y vẫn lọt vào tiêu chuẩn tốt, thực ra là sự tắc trách của bác sĩ không theo đõi so sánh diễn tiến của kết quả thử nghiệm, rồi bỗng nhiên xét nghiệm máu lần cuối mới phát hiện ra ung thư, bệnh nhân nhận được kết qủa như nhận bản án tử hình.
Tại sao gọi là lỗi vô trách nhiệm của bác sĩ, vì xét nghiệm của y khoa đều có giới hạn, vượt cao hơn giới hạn, hay thấp hơn giới hạn là bệnh. Khi xét nghiệm máu một người không bệnh, kết quả nằm ở giữa giới hạn trong tiêu chuẩn, nhưng khi có dấu hiệu củ những lầ thử máu kế tiếp có kết qủa càng tăng cao sắp lọt ra ngoài giới hạn hay kết quả qúa thấp sắp lọt ra ngoài kết quả, bác sĩ cũng nói tốt, mà không cảnh báo bệnh nhân,
Đối với KCYĐ môn Y Học Bổ Sung, cần theo dõi lần thứ nhất áp huyết đo cả hai tay, đo đường, đo pH nước bọt, nhiệt kế trên đầu ngón tay út, trước khi ăn, hay trước khi uống thuốc, hay trước khi tập. Đo lại lần thứ hai 30 phút sau khi ăn, hay uống thuốc, hay tập khí công. Ngày nào cũng áp dụng cách kiểm soát áp huyết 2 tay, đường-huyết, nhiệt kế, pH.
Khi cơ thể khỏe mạnh không bệnh nằm trong tiêu chuẩn sau :
Trước khi ăn hay uống thuốc : AH tay trái 120/70mmHg nhịp mạch 70-75, AH tay phải 130/70mmHg nhịp mạch 70-75.
Sau khi ăn hay uống thuốc : AH tay trái 130/70mmHg nhịp mạch 70-75, AH tay phải 120/70mmHg nhịp mạch 70-75.
Như vậ bất cứ ăn thứ gì, hay uống thuốc gì, ai nói tốt, nhưng đo áp huyết tụt thấp dần xuống 80/60mHg nhịp mạch 60 là áp huyết của các bệnh ung thư.
Về đường huyết khi đói từ 100-140mg/dL, khi no 140-180mg/dL, nhưng lúc nào đường cũng thấp do dùng thuốc hạ đường thấp dưới 80mg/dL thì tế bào bị ung thư do cơ thể thiếu đường dương, hay không ăn đường mà đo đường 400-500mg/dl là đường âm do tế bào bị rút mất đường, pH thấp 4-6 là ung thư.
Khi có pH càng acid tế bào ung thư càng phát triển, phải uống ngay 1 ly nước pha 2 thìa Baking Soda với 2-4 thìa đường cát vàng uống ngay, trong máu sẽ ngả về pH dương kiềm tính, tuần hoàn khắp cơ thể tạo moôi trường kiềm, hay ra chợ tây mua chai nước alkaline pH 9 uống mỗi ngày, thì tế bào ung thư sẽ không sống được trong môi trường kiềm, tự bị hủy hoại theo nước tiểu ra ngoài , mà không cần hóa xạ trị tiêu diệt tế bào ung thư hại cả tế bào lành. Nhớ rằng pH 9 tế bào ung thư tự chết, nên mỗi ngày sau khi ăn phải thử pH nằm trong tiêu chuẩn trung tính 7-8.
Đo nhiệt kết trên bàn tay, ngón tay thấp máy chỉ low không bắt được nhiệt độ, hay nhiệt độ thấp không đủ tiêu chuẩn 36-37 độ C.
Như vậy theo KCYĐ dấu hiệu ung thư là áp huyết tâm thu thấp 80mmHg là thiếu khí lực, thiếu oxy duy trì công thức máu, hơi thở ngắn hơi, hụt hơi, thở mệt, tâm trương thấp là mất lượng máu là thiếu hồng cầu, thiếu bạch cầu, thì tiểu cầu cũng thiếu, nhịp tim thấp là tốc độ tuần hoàn máu chậm, người lạnh. Đường huyết thấp thì thiêu nhiều năng lượng và nhiệt lượng, pH acid là trong máu và tế bào sống trong môi trường acid thì tế bào lành trở thành tế bào ung thư .
Bất cứ cách chữa nào càng làm cho áp huyết xuống 70/50mmHg thì bệnh nhân chết, ngược lại cách chữa nào làm tăng áp huyết, tăng đường, pH, nhiệt kế trở lại đúng tiêu chuẩn thì khỏi bệnh
Nên cách chữa củ KCYĐ chỉ cần ăn phở chay hay mặn, không ăn được thì xay ra nước uống dần cho bổ máu, sau khi ăn uống 1 ly nước mía, sau 30 phút tập bài Kéo Ép Gối Chậm để chuyển hóa thức ăn thành chất bổ, bài Lăn Người đưa máu và đường lên nuôi não, sau khi tập uống tiếp 1 ly nước mía, cho thận lọc giải độc và điều chỉnh lượng đường trong máu và áp huyết, áp dụng ngày 3 lần trong 3 tháng sức khỏe phục hồi, tăng cân, sau đó duy trì áp huyết và đường, nếu áp huyết và đường tụt thấp trở lại tây y gọi là di căn toàn thân, nên cần phải theo dõi áp huyết và đường mỗi ngày.
BÀI ĐỌC THÊM :
CHẨN ĐOÁN UNG THƯ GAN THEO TÂY Y
1. Chụp cắt lớp vi tính CT:
Những năm gần đây, kiểm tra CT là cách thường dùng để chẩn đoán ung thư thư gan, nó thể hiện rất rõ ràng độ lớn nhỏ và hình thái, số lượng cùng vùng biên. Ngoài ra, dựa vào phân tích hình ảnh có thể tái hiện lại kết cấu bên trong gan, để xác định chính xác mối quan hệ của mỗi huyết quản với khối u.
2. Chụp cộng hưởng từ MRI:
Phương pháp này thích hợp cho chẩn đoán ung thư gan ở tình trạng nhẹ, giúp chẩn đoán các khối u gan lành tính chuyển ác tính, phương pháp này là phương pháp bổ sung cho chẩn đoán bằng CT.
3. Siêu âm:
Thông thường thì siêu âm thường dùng để theo dõi sau điều trị và kiểm tra thông thường đối với các loại bệnh, phương pháp này dùng trong chẩn đoán ung thư gan có thể thấy rõ kích thước cũng như hình thái của khối u, có giá trị trong việc chẩn đoán tính chất của khối u gan.
4. Chỉ số AFP:
Về lâm sàng, AFP là cách thường dùng trong chẩn đoán ung thư gan, nó vừa đơn giản lại thực dụng. Những bệnh nhân mắc viêm gan mang độc tính thì rất dễ mắc ung thư, AFP cũng tăng cao, nhưng không phải bệnh nhân ung thư gan nào AFP cũng tăng cao hết. Do đó những bệnh nhân viêm gan mà có chỉ số AFP ở mức bình thường cũng không được chủ quan.
PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ
Phương pháp điều trị ung thư gan phụ thuộc vào giai đoạn phát triển của bệnh và tình trạng sức khỏe của bệnh nhân. Có một số phương pháp điều trị bệnh như phẫu thuật, ghép gan, xạ trị và hóa trị liệu.
1. Phẫu thuật:
Khi khối u còn nhỏ, các bác sĩ có thể cắt bỏ khối u trong gan người bệnh và một số mô xung quanh. Ngay cả khi một phần gan được loại bỏ thì sức khỏe của bệnh nhân cũng không bị suy giảm đáng kể.
2. Ghép gan:
Bác sĩ có thể lấy gan của cha mẹ, anh chị em, họ hàng hoặc người lạ để ghép cho người bệnh với điều kiện gan người cho phải thích hợp với gan người nhận. Ngoài ra, có thể lấy gan của những người chết não và được bảo quản cẩn thận, đưa đến nơi sử dụng càng sớm càng tốt. Điều quan trọng là gan người cho phải có kích thước thích hợp với người nhận, máu của người cho và người nhận phải phù hợp với nhau.
3. Xạ trị:
Trong một số trường hợp, xạ trị có thể được thực hiện trước khi phẫu thuật để thu nhỏ kích thước các khối u, làm cho chúng dễ loại bỏ hơn. Xạ trị không được sử dụng thường xuyên để điều trị ung thư gan vì các khối u có xu hướng không đáp ứng với bức xạ. Những người được điều trị bằng xạ trị có biểu hiện như mệt mỏi, da khô, buồn nôn và nôn, chán ăn, tiêu chảy.
4. Hóa trị liệu:
Thuốc được tiêm trực tiếp vào tĩnh mạch người bệnh hoặc có thể dùng thuốc dạng viên. Tuy nhiên, nhiều loại thuốc được chuyển hóa vào gan sẽ hạn chế tác dụng của thuốc và gây tác dụng phụ như buồn nôn và nôn, rụng tóc, mệt mỏi, tiêu chảy, cảm giác ớn lạnh, khó thở, ho, lở miệng,…
5. Thuốc uống:
Cho dù chúng ta sử dụng phương pháp nào đi chăng nữa thì nó vẫn còn có những hạn chế, ví dụ như phương pháp hóa trị sẽ làm ảnh hưởng đến cơ thể, gây mệt mỏi, suy kiệt sức khỏe của người điều trị; hoặc phương pháp xạ trị là dùng tia X có bước sóng ngắn để tiêu diệt các tế bào ung thư nhưng lại không thể tiêu diệt hết tất cả các khối u, làm khối u vẫn có thể phát triển và di căn … Chính vì vậy, chúng tôi khuyên bạn nên sử dụng bổ sung các loại thuốc trị ung thư GRAVIOLA hoặc CURCUMIN
https://www.facebook.com/photo.php…) trong phác đồ điều trị, như vậy sẽ nâng cao hiệu quả điều trị bệnh lên gấp nhiều lần.
PHÒNG NGỪA NHƯ THẾ NÀO?
Để ngăn ngừa ung thư gan, mọi người nên có chế độ ăn uống, nghỉ ngơi hợp lý, lối sống lành mạnh, đặc biệt là tiêm ngừa viêm gan B đầy đủ.
- Tiêm vac-xin viêm gan siêu vi B cũng là một cách ngăn ngừa mắc bệnh gan, dẫn đến ung thư.
- Hạn chế rượu bia, thuốc lá: Nếu dùng nhiều và thường xuyên làm tăng nguy cơ xơ gan, khiến ung thư gan dễ dàng phát triển.
- Không dùng chung bơm kim tiêm, bàn chải đánh răng, dao cạo râu có dính máu của người bệnh; không dùng kim châm cứu, xăm mình, dụng cụ y tế khám răng khi chưa được vô trùng.
- Sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục để phòng tránh viêm gan siêu vi B.
- Những người mắc viêm gan B, C, viêm gan do rượu, gan nhiễm mỡ, xơ gan… cần được điều trị và theo dõi chặt chẽ.
1-Nguyên nhân gây bệnh ung thư gan bạn cần biết
Nguyên nhân gây bệnh ung thư gan có thể đến từ chính những thói quen trong sinh hoạt hàng ngày của bạn. Chính vì vậy việc tìm hiểu, nắm bắt những nguyên nhân gây bệnh ung thư gan sẽ giúp bạn điều chỉnh cuộc sống sao cho khoa học và có thể giúp những người thân xung quanh mình phòng tránh bệnh hiệu quả.
1-Người bị nhiễm virus viêm gan B:
Đa phần những người mắc viêm gan B hiện nay đều có thể tự miễn dịch với loại virus này, tuy nhiên, 10% trong số đó lại có thể bị viêm gan B mãn tính. Viêm gan B mãn tính có khả năng rất cao để tiến triển thành xơ gan và ung thư gan.
2-Người bị nhiễm virus viêm gan C:
Viêm gan C cho dù ít gặp hơn so với viêm gan B nhưng lại có mức độ nguy hiểm hơn rất nhiều vì nguy cơ để phát triển thành xơ gan và ung thư gan có thể lên đến 90%.
Trong thời gian ủ bệnh, viêm gan C hầu như không gây ra bất cứ ảnh hưởng gì đến sức khỏe của người bệnh, chính vì thế mà rất nhiều trường hợp người bệnh mắc viêm gan C nhưng lại không hề biết.
Khi viêm gan C đã tiến triển thành bệnh xơ gan, chỉ mất từ 8 – 10 năm sau là bệnh sẽ có nguy cơ chuyển thành ung thư gan. Theo như ước tính, khoảng thời gian trung bình của người bệnh từ lúc mắc viêm gan C cho đến khi phát triển thành bệnh ung thư gan là 28 năm.
NGUYÊN NHÂN BỆNH UNG THƯ GAN
1. Do viêm gan B lây nhiễm
Viêm gan B có thể có nguồn gốc từ các sản phẩm máu bị ô nhiễm hoặc kim được sử dụng hoặc tiếp xúc tình dục. Vai trò của viêm nhiễm là do virus gan B (HBV) gây ra. Như đã nói trước đó, tỷ lệ ung thư gan có nguy cơ cao là liên quan nhiễm virus viêm gan B mãn tính.
Ở những bệnh nhân bị nhiễm hai virus viêm gan B mãn tính và ung thư gan, cơ cấu di truyền của virus viêm gan B thường được tìm thấy là một phần của cơ cấu di truyền của các tế bào ung thư. Người ta cho rằng khu vực cụ thể của bộ gen virus viêm gan B (mã di truyền) vào những cấu tạo di truyền của tế bào gan. Cơ cấu di truyền vi rút viêm gan B này sau đó có thể phá vỡ các cơ cấu bình thường trong tế bào gan, do đó gây ra các tế bào gan để trở thành ung thư.
2. Do viêm gan C lây nhiễm
Virus viêm gan C (HCV) thì khó hơn để phát triển thành ung thư gan hơn so với viêm gan B. Nó thường đòi hỏi phải tiếp xúc trực tiếp với máu bị nhiễm, hoặc từ các sản phẩm máu hoặc kim tiêm bị ô nhiễm.
Cách thức mà virus viêm gan C gây ra ung thư gan chưa được hiểu rõ. Không giống như virus viêm gan B, cách thức di truyền của virus viêm gan C không được đưa trực tiếp vào vật liệu di truyền của tế bào gan. Nó được biết đến xơ gan do mọi nguyên nhân là một yếu tố nguy cơ cho sự phát triển của ung thư gan. Vì vậy, nó đã được lập luận rằng virus viêm gan C, gây ra xơ gan , là một nguyên nhân gián tiếp của ung thư gan.
3. Do uống nhiều rượu
Xơ gan gây ra bởi tiêu thụ rượu mãn tính, nó hiện là tác nhân phổ biến nhất của ung thư gan ở các nước phát triển. Trong thực tế, khám nghiệm tử thi, có đến một nửa trong số người nghiện rượu trước đây vốn bị nghi ngờ có ung thư là có những triệu chứng sớm của ung thư tiềm ẩn bên trong gan. Nhiều người trong số những người này cũng bị nhiễm virus viêm gan C mãn tính.
4. Ăn thực phẩm có chứa Aflatoxin B1
Aflatoxin B1 là các hóa chất tạo ung thư gan mạnh nhất được biết đến. Nó là một sản phẩm gọi là Aspergillus flavus , được tìm thấy trong thực phẩm đã được lưu trữ trong một môi trường nóng và ẩm. Nấm mốc này được tìm thấy trong thực phẩm như gạo, lạc, đậu tương, ngô và lúa mì. Nó được cho là gây ra ung thư bằng cách thay đổi sản xuất (đột biến) ở gen p53. Những đột biến này hoạt động bằng cách can thiệp quan trọng của gen ức chế khối u (ức chế) chức năng.
5. Thuốc, thuốc men và hóa chất
Một số hóa chất có liên quan với các loại ung thư được tìm thấy trong gan. Ví dụ: thorotrast - một tác nhân tương phản trước đây được sử dụng cho các nghiên cứu chẩn đoán hình ảnh, gây ra một bệnh ung thư của các mạch máu trong gan gọi là angiosarcoma gan. Ngoài ra, vinyl chloride - một hợp chất được sử dụng trong công nghiệp nhựa, có thể gây ra angiosarcomas gan xuất hiện nhiều năm sau khi tiếp xúc.
6. Hemochromatosis
Ung thư gan sẽ phát triển lên đến 30% bệnh nhân với di truyền hemochromatosis (một rối loạn trong đó có quá nhiều sắt được lưu trữ trong cơ thể, bao gồm trong gan). Bệnh nhân có nguy cơ cao nhất là những người bị xơ gan với hemochromatosis. Thật không may, khi xơ gan tạo ra thì hiệu quả loại bỏ các dư thừa sắt (điều trị cho hemochromatosis) sẽ không làm giảm nguy cơ phát triển ung thư gan.
7. Bệnh tiểu đường và béo phì
Trong thập kỷ qua, tỷ lệ mắc ung thư gan trên thế giới đã tăng đáng kể, song song với sự gia tăng bệnh béo phì. Mặc dù rất khó để tách ảnh hưởng của bệnh tiểu đường từ bệnh béo phì trên gan, cả hai điều kiện có thể gây ra tổn thương mãn tính và tích tụ mỡ trong gan ... Đây là một căn bệnh gọi là NASH. Bệnh gan nhiễm mỡ như thế này gây thiệt hại cho các tế bào gan cá nhân và có thể dẫn đến xơ gan ở một số người, do đó tăng nguy cơ ung thư gan.
8. Xơ gan
Hầu hết các loại bệnh xơ gan có tăng nguy cơ phát triển ung thư gan. Ngoài các điều kiện mô tả ở trên (viêm gan B, viêm gan C, rượu, và hemochromatosis), thiếu hụt alpha 1-trypsin , một tình trạng di truyền có thể gây ra bệnh khí thũng và xơ gan, có thể dẫn đến ung thư gan. Ung thư gan cũng liên quan chặt chẽ với tyrosinemia di truyền, bất thường ở trẻ em sinh hóa dẫn đến xơ gan sớm.
CHẨN ĐOÁN UNG THƯ GAN THEO TÂY Y
1. Chụp cắt lớp vi tính CT:
Những năm gần đây, kiểm tra CT là cách thường dùng để chẩn đoán ung thư thư gan, nó thể hiện rất rõ ràng độ lớn nhỏ và hình thái, số lượng cùng vùng biên. Ngoài ra, dựa vào phân tích hình ảnh có thể tái hiện lại kết cấu bên trong gan, để xác định chính xác mối quan hệ của mỗi huyết quản với khối u.
2. Chụp cộng hưởng từ MRI:
Phương pháp này thích hợp cho chẩn đoán ung thư gan ở tình trạng nhẹ, giúp chẩn đoán các khối u gan lành tính chuyển ác tính, phương pháp này là phương pháp bổ sung cho chẩn đoán bằng CT.
3. Siêu âm:
Thông thường thì siêu âm thường dùng để theo dõi sau điều trị và kiểm tra thông thường đối với các loại bệnh, phương pháp này dùng trong chẩn đoán ung thư gan có thể thấy rõ kích thước cũng như hình thái của khối u, có giá trị trong việc chẩn đoán tính chất của khối u gan.
4. Chỉ số AFP:
Về lâm sàng, AFP là cách thường dùng trong chẩn đoán ung thư gan, nó vừa đơn giản lại thực dụng. Những bệnh nhân mắc viêm gan mang độc tính thì rất dễ mắc ung thư, AFP cũng tăng cao, nhưng không phải bệnh nhân ung thư gan nào AFP cũng tăng cao hết. Do đó những bệnh nhân viêm gan mà có chỉ số AFP ở mức bình thường cũng không được chủ quan.
PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ
Phương pháp điều trị ung thư gan phụ thuộc vào giai đoạn phát triển của bệnh và tình trạng sức khỏe của bệnh nhân. Có một số phương pháp điều trị bệnh như phẫu thuật, ghép gan, xạ trị và hóa trị liệu.
1. Phẫu thuật:
Khi khối u còn nhỏ, các bác sĩ có thể cắt bỏ khối u trong gan người bệnh và một số mô xung quanh. Ngay cả khi một phần gan được loại bỏ thì sức khỏe của bệnh nhân cũng không bị suy giảm đáng kể.
2. Ghép gan:
Bác sĩ có thể lấy gan của cha mẹ, anh chị em, họ hàng hoặc người lạ để ghép cho người bệnh với điều kiện gan người cho phải thích hợp với gan người nhận. Ngoài ra, có thể lấy gan của những người chết não và được bảo quản cẩn thận, đưa đến nơi sử dụng càng sớm càng tốt. Điều quan trọng là gan người cho phải có kích thước thích hợp với người nhận, máu của người cho và người nhận phải phù hợp với nhau.
3. Xạ trị:
Trong một số trường hợp, xạ trị có thể được thực hiện trước khi phẫu thuật để thu nhỏ kích thước các khối u, làm cho chúng dễ loại bỏ hơn. Xạ trị không được sử dụng thường xuyên để điều trị ung thư gan vì các khối u có xu hướng không đáp ứng với bức xạ. Những người được điều trị bằng xạ trị có biểu hiện như mệt mỏi, da khô, buồn nôn và nôn, chán ăn, tiêu chảy.
4. Hóa trị liệu:
Thuốc được tiêm trực tiếp vào tĩnh mạch người bệnh hoặc có thể dùng thuốc dạng viên. Tuy nhiên, nhiều loại thuốc được chuyển hóa vào gan sẽ hạn chế tác dụng của thuốc và gây tác dụng phụ như buồn nôn và nôn, rụng tóc, mệt mỏi, tiêu chảy, cảm giác ớn lạnh, khó thở, ho, lở miệng,…
5. Thuốc uống:
Cho dù chúng ta sử dụng phương pháp nào đi chăng nữa thì nó vẫn còn có những hạn chế, ví dụ như phương pháp hóa trị sẽ làm ảnh hưởng đến cơ thể, gây mệt mỏi, suy kiệt sức khỏe của người điều trị; hoặc phương pháp xạ trị là dùng tia X có bước sóng ngắn để tiêu diệt các tế bào ung thư nhưng lại không thể tiêu diệt hết tất cả các khối u, làm khối u vẫn có thể phát triển và di căn … Chính vì vậy, chúng tôi khuyên bạn nên sử dụng bổ sung các loại thuốc trị ung thư GRAVIOLA hoặc CURCUMIN
https://www.facebook.com/photo.php…) trong phác đồ điều trị, như vậy sẽ nâng cao hiệu quả điều trị bệnh lên gấp nhiều lần.
PHÒNG NGỪA NHƯ THẾ NÀO?
Để ngăn ngừa ung thư gan, mọi người nên có chế độ ăn uống, nghỉ ngơi hợp lý, lối sống lành mạnh, đặc biệt là tiêm ngừa viêm gan B đầy đủ.
- Tiêm vac-xin viêm gan siêu vi B cũng là một cách ngăn ngừa mắc bệnh gan, dẫn đến ung thư.
- Hạn chế rượu bia, thuốc lá: Nếu dùng nhiều và thường xuyên làm tăng nguy cơ xơ gan, khiến ung thư gan dễ dàng phát triển.
- Không dùng chung bơm kim tiêm, bàn chải đánh răng, dao cạo râu có dính máu của người bệnh; không dùng kim châm cứu, xăm mình, dụng cụ y tế khám răng khi chưa được vô trùng.
- Sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục để phòng tránh viêm gan siêu vi B.
- Những người mắc viêm gan B, C, viêm gan do rượu, gan nhiễm mỡ, xơ gan… cần được điều trị và theo dõi chặt chẽ.
1-Nguyên nhân gây bệnh ung thư gan bạn cần biết
Nguyên nhân gây bệnh ung thư gan có thể đến từ chính những thói quen trong sinh hoạt hàng ngày của bạn. Chính vì vậy việc tìm hiểu, nắm bắt những nguyên nhân gây bệnh ung thư gan sẽ giúp bạn điều chỉnh cuộc sống sao cho khoa học và có thể giúp những người thân xung quanh mình phòng tránh bệnh hiệu quả.
1-Người bị nhiễm virus viêm gan B:
Đa phần những người mắc viêm gan B hiện nay đều có thể tự miễn dịch với loại virus này, tuy nhiên, 10% trong số đó lại có thể bị viêm gan B mãn tính. Viêm gan B mãn tính có khả năng rất cao để tiến triển thành xơ gan và ung thư gan.
2-Người bị nhiễm virus viêm gan C:
Viêm gan C cho dù ít gặp hơn so với viêm gan B nhưng lại có mức độ nguy hiểm hơn rất nhiều vì nguy cơ để phát triển thành xơ gan và ung thư gan có thể lên đến 90%.
Trong thời gian ủ bệnh, viêm gan C hầu như không gây ra bất cứ ảnh hưởng gì đến sức khỏe của người bệnh, chính vì thế mà rất nhiều trường hợp người bệnh mắc viêm gan C nhưng lại không hề biết.
Khi viêm gan C đã tiến triển thành bệnh xơ gan, chỉ mất từ 8 – 10 năm sau là bệnh sẽ có nguy cơ chuyển thành ung thư gan. Theo như ước tính, khoảng thời gian trung bình của người bệnh từ lúc mắc viêm gan C cho đến khi phát triển thành bệnh ung thư gan là 28 năm.
NGUYÊN NHÂN BỆNH UNG THƯ GAN
1. Do viêm gan B lây nhiễm
Viêm gan B có thể có nguồn gốc từ các sản phẩm máu bị ô nhiễm hoặc kim được sử dụng hoặc tiếp xúc tình dục. Vai trò của viêm nhiễm là do virus gan B (HBV) gây ra. Như đã nói trước đó, tỷ lệ ung thư gan có nguy cơ cao là liên quan nhiễm virus viêm gan B mãn tính.
Ở những bệnh nhân bị nhiễm hai virus viêm gan B mãn tính và ung thư gan, cơ cấu di truyền của virus viêm gan B thường được tìm thấy là một phần của cơ cấu di truyền của các tế bào ung thư. Người ta cho rằng khu vực cụ thể của bộ gen virus viêm gan B (mã di truyền) vào những cấu tạo di truyền của tế bào gan. Cơ cấu di truyền vi rút viêm gan B này sau đó có thể phá vỡ các cơ cấu bình thường trong tế bào gan, do đó gây ra các tế bào gan để trở thành ung thư.
2. Do viêm gan C lây nhiễm
Virus viêm gan C (HCV) thì khó hơn để phát triển thành ung thư gan hơn so với viêm gan B. Nó thường đòi hỏi phải tiếp xúc trực tiếp với máu bị nhiễm, hoặc từ các sản phẩm máu hoặc kim tiêm bị ô nhiễm.
Cách thức mà virus viêm gan C gây ra ung thư gan chưa được hiểu rõ. Không giống như virus viêm gan B, cách thức di truyền của virus viêm gan C không được đưa trực tiếp vào vật liệu di truyền của tế bào gan. Nó được biết đến xơ gan do mọi nguyên nhân là một yếu tố nguy cơ cho sự phát triển của ung thư gan. Vì vậy, nó đã được lập luận rằng virus viêm gan C, gây ra xơ gan , là một nguyên nhân gián tiếp của ung thư gan.
3. Do uống nhiều rượu
Xơ gan gây ra bởi tiêu thụ rượu mãn tính, nó hiện là tác nhân phổ biến nhất của ung thư gan ở các nước phát triển. Trong thực tế, khám nghiệm tử thi, có đến một nửa trong số người nghiện rượu trước đây vốn bị nghi ngờ có ung thư là có những triệu chứng sớm của ung thư tiềm ẩn bên trong gan. Nhiều người trong số những người này cũng bị nhiễm virus viêm gan C mãn tính.
4. Ăn thực phẩm có chứa Aflatoxin B1
Aflatoxin B1 là các hóa chất tạo ung thư gan mạnh nhất được biết đến. Nó là một sản phẩm gọi là Aspergillus flavus , được tìm thấy trong thực phẩm đã được lưu trữ trong một môi trường nóng và ẩm. Nấm mốc này được tìm thấy trong thực phẩm như gạo, lạc, đậu tương, ngô và lúa mì. Nó được cho là gây ra ung thư bằng cách thay đổi sản xuất (đột biến) ở gen p53. Những đột biến này hoạt động bằng cách can thiệp quan trọng của gen ức chế khối u (ức chế) chức năng.
5. Thuốc, thuốc men và hóa chất
Một số hóa chất có liên quan với các loại ung thư được tìm thấy trong gan. Ví dụ: thorotrast - một tác nhân tương phản trước đây được sử dụng cho các nghiên cứu chẩn đoán hình ảnh, gây ra một bệnh ung thư của các mạch máu trong gan gọi là angiosarcoma gan. Ngoài ra, vinyl chloride - một hợp chất được sử dụng trong công nghiệp nhựa, có thể gây ra angiosarcomas gan xuất hiện nhiều năm sau khi tiếp xúc.
6. Hemochromatosis
Ung thư gan sẽ phát triển lên đến 30% bệnh nhân với di truyền hemochromatosis (một rối loạn trong đó có quá nhiều sắt được lưu trữ trong cơ thể, bao gồm trong gan). Bệnh nhân có nguy cơ cao nhất là những người bị xơ gan với hemochromatosis. Thật không may, khi xơ gan tạo ra thì hiệu quả loại bỏ các dư thừa sắt (điều trị cho hemochromatosis) sẽ không làm giảm nguy cơ phát triển ung thư gan.
7. Bệnh tiểu đường và béo phì
Trong thập kỷ qua, tỷ lệ mắc ung thư gan trên thế giới đã tăng đáng kể, song song với sự gia tăng bệnh béo phì. Mặc dù rất khó để tách ảnh hưởng của bệnh tiểu đường từ bệnh béo phì trên gan, cả hai điều kiện có thể gây ra tổn thương mãn tính và tích tụ mỡ trong gan ... Đây là một căn bệnh gọi là NASH. Bệnh gan nhiễm mỡ như thế này gây thiệt hại cho các tế bào gan cá nhân và có thể dẫn đến xơ gan ở một số người, do đó tăng nguy cơ ung thư gan.
8. Xơ gan
Hầu hết các loại bệnh xơ gan có tăng nguy cơ phát triển ung thư gan. Ngoài các điều kiện mô tả ở trên (viêm gan B, viêm gan C, rượu, và hemochromatosis), thiếu hụt alpha 1-trypsin , một tình trạng di truyền có thể gây ra bệnh khí thũng và xơ gan, có thể dẫn đến ung thư gan. Ung thư gan cũng liên quan chặt chẽ với tyrosinemia di truyền, bất thường ở trẻ em sinh hóa dẫn đến xơ gan sớm.