Thứ Tư, 15 tháng 5, 2019

Tiểu đường Phần 6. Hyperglycemia-Hypoglycemia




Bệnh đường huyết thấp gây đột qụy, bại não và hại thần kinh động kinh, parkinson, suy tim, gan, tỳ, bao tử, thận, loãng xương, hoại tử, ung thư.




A-Phân biệt tiêu chuẩn mới đường-huyết cho người bệnh và không bệnh tiểu đường :

Bệnh đường huyết thấp có tên là Hypoglycemia do 3 nguyên nhân :
a-Do sợ bị bệnh tiểu đường nên kiêng đường và chất ngọt, là những người tự hào không bị bệnh tiểu đường, khi thử đường thấp dưới tiêu chuẩn 126mg/dl hay dưới 7mmol/l.
b-Do sai lầm của thầy thuốc cố hạ thấp đường huyết trong điều trị cho những bệnh nhân bị tiểu đường..
c-Do sai lầm của tập thể tây y khi hạ tiêu chuẩn đường huyết xuống qúa thấp như hiện nay, những ai có đường huyết cao hơn 126mg/dl là bị bệnh tiểu đường loại 2, những ai có đường huyết cao hơn 110mg/dL là bệnh tiền tiểu đường hay gọi là tiểu đường loại 4.

B-Tiêu chuẩn mới năm 2018 của các Đại Học Bác Sĩ Hoa Kỳ (ACP):

Timing
Blood glucose level (mg/dL)
Before breakfast
Person without diabetes: 100 mg/dL
Person with diabetes: 70–130mg/dL

2 hours after a meal
Person without diabetes: Less than 140 mg/dL
Person with diabetes: Less than 180 mg/dL

Bedtime
Person without diabetes: 120 mg/dL
Person with diabetes: 90–150 mg/dL

Trước khi ăn sáng: Người không bị tiểu đường 100mg/dL= 5,6mmol/l
Người bệnh tiểu đường 70-130mg/dL ( 3,9-7,2mmol/l )                          

2 giờ sau bữa ăn Người không bị tiểu đường: Dưới 140 mg / dL= 7,8mmol/l
Người mắc bệnh tiểu đường: Dưới 180 mg / dL= 10mmol/l

Trước khi đi ngủ người không bị tiểu đường: 120 mg / dL=6,7mmol/l
Người mắc bệnh tiểu đường: 90-150 mg / dL ( 5,0-8,3mmol/l )

Riêng kinh nghiệm của Môn Khí Công Y Đạo, trước khi đi ngủ đường huyết phải từ 130-150mg/dL trong đêm đường huyết sẽ tụt thấp cho đến khi trước khi ăn sáng sẽ thấp nhất là 100mg/dL sẽ an toàn, nếu trước khi đi ngủ đường huyết thấp 90mg/dL sẽ bị nguy hiểm khi ban đêm đường huyết tụt thấp khoảng 70-50mg/dL rơi vào hôn mê hoặc tử vong.

Hiệp hội Tiểu đường Hoa Kỳ khuyến nghị mức tiêu chuẩn là 70-130 mg / dL trước khi ăn cho người bị tiểu đường.
Trong vòng 2 giờ sau khi ăn một bữa ăn, mức đường huyết nên dưới 180mg / dL.
Riêng chúng ta phải biết cách tự phòng bệnh đường huyết thấp, không nên áp dụng tiêu chuẩn 70-130mg/dL của Hội Tim Mạch Hoa Kỳ, nên giữ mức đường huyết an toàn từ 100-130mg/dL, tiêu chuẩn này cũng đã hạ thấp so với tiêu chuẩn cũ của Y Tế Thế Giới năm 1979, có 2 tiêu chuẩn : Đói từ 100-140mg/dL và No từ 140-200mg/dL, nên ít có người bị bệnh tiểu đường.

Bệnh tiểu đường loại 2: Hướng dẫn mới làm giảm mức kiểm soát lượng đường trong máu, thay đổi tăng tiêu chuẩn HbA1C lên 7% đến 8% thay vì dưới 6%.

Đại học Bác sĩ Hoa Kỳ (American College Physicians) hiện đã công bố hướng dẫn mới của họ vào thứ ba ngày 6 tháng 3 năm 2018 bởi Ana Sandoiu Fact được kiểm tra bởi Jasmin Collier về mức độ kiểm soát lượng đường trong máu mong muốn cho những người mắc bệnh tiểu đường loại 2.
Các khuyến nghị nhằm mục đích thay đổi thực hành trị liệu hiện tại và các bác sĩ nên nhắm đến mức độ đường trong máu vừa phải khi điều trị cho bệnh nhân của họ.

Bệnh hạ đường huyết của người không bí bệnh tiểu đường :

Có hai loại hạ đường huyết của người không bị bệnh tiểu đường :
Hạ đường huyết phản ứng, xảy ra trong vòng vài giờ sau khi ăn một bữa ăn, do thức ăn có chất hạ đường như ăn canh chua, khổ qua..

Hạ đường huyết lúc đói, có thể liên quan đến một bệnh khác.
Glucose là nguồn năng lượng cung cấp chính cho cơ thể, cho não và tim. Nó đến từ những thức ăn và uống,
Công việc của insulin nội do tuyến tụy sản xuất ra, dẫn glucose đi vào nuôi các tế bào, nơi nó được sử dụng làm năng lượng. Nếu mức glucose quá thấp, người sẽ cảm thấy không khỏe thì chỉ việc ăn uống thêm cho đường huyết tăng lên, nhưng phải có máy đo đường, khi đường cao thì bớt ăn nhiều và bớt ăn ngọt thì đường huyết trở lại bình thường.

C-So sánh 2 tiêu chuẩn xét nghiệm HbA1c cũ và mới:

Theo ước tính gần đây nhất, gần 30 triệu người ở Hoa Kỳ mắc bệnh tiểu đường loại 2, chiếm tới hơn 9% của toàn bộ dân số Hoa Kỳ, khi áp dụng tiêu chuẩn cũ.
Sau khi được chẩn đoán mắc bệnh tiểu đường loại 2, bệnh nhân thường được khuyên nên thực hiện xét nghiệm glycated hemoglobin (HbA1c) để kiểm soát lượng đường trong máu. Xét nghiệm tính trung bình lượng đường trong máu của một người trong 2 hoặc 3 tháng qua, với tiêu chuẩn cao hơn HbA1c là 6,5% cho thấy là bệnh tiểu đường.
Những bệnh nhân đạt trên 6,5% là bị bệnh tiểu đường, sau đó sẽ được chỉ định điều trị dựa trên insulin hàng ngày mà họ có thể tự tiêm. Việc tiêm tác dụng nhanh có hiệu lực trong vòng 5 đến 15 phút nhưng kéo dài trong thời gian ngắn hơn từ 3 đến 5 giờ. sau 1 hoặc 2 giờ và kéo dài trong khoảng từ 14 đến 24 giờ.

Nhưng một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng xét nghiệm HbA1c hiện đang được sử dụng 6,5% là thấp quá mức ở Hoa Kỳ, và họ đã gợi ý rằng xét nghiệm quá mức như vậy có thể dẫn đến việc điều trị quá mức trở thành sai lầm do thầy thuốc gây ra ( iatrogenic )  cho bệnh nhân bằng thuốc hạ đường huyết.
Những loại thuốc này thường có một loạt các tác dụng phụ, chẳng hạn như các vấn đề về đường tiêu hóa, lượng đường trong máu quá thấp, tăng cân và thậm chí là suy tim xung huyết.
Ngoài ra, như một số nhà nghiên cứu đã chỉ ra, "Thử nghiệm quá mức góp phần vào vấn đề ngày càng tăng của chất thải trong chăm sóc sức khỏe và tăng gánh nặng bệnh nhân trong điêu trị bệnh tiểu đường."

Trong bối cảnh này, đã đặt ra để kiểm tra các hướng dẫn hiện có từ một số tổ chức và bằng chứng có sẵn trong nỗ lực giúp các bác sĩ đưa ra quyết định sáng suốt hơn trước, tốt hơn trước về việc điều trị cho những người mắc bệnh tiểu đường loại 2, ít bị hậu qủa sai lầm như trước.

Nên sử dụng tiêu chuẩn mới HbA1C từ 7% đến 8% thay vì tiêu chuẩn cũ 6.5%

Như Đại học Bác sĩ Hoa Kỳ (ACP) giải thích, lý do hiện tại đằng sau các khuyến nghị hiện tại về tiêu chuẩn 6,5% - hoặc dưới 7% - là việc giữ lượng đường trong máu ở mức thấp này tưởng sẽ làm giảm nguy cơ biến chứng vi mạch theo thời gian. Tuy nhiên, ACP nhận thấy rằng bằng chứng cho việc giảm như vậy là "không nhất quán".
Như Tiến sĩ Jack Ende - chủ tịch của ACP - đưa ra, "phân tích bằng chứng của chúng tôi về các bằng chứng hiện có cho thấy rằng điều trị bằng thuốc với các tiêu chuẩn 7% hoặc ít hơn so với các tiêu chuẩn khoảng 8% không làm giảm tử vong hoặc mạch máu vĩ mô các biến chứng như đau tim hoặc đột quỵ nhưng đã gây ra những tác hại đáng kể. "

Dưới đây là lượng HbA1c và mức glucose trung bình được ước tính (EAG):

A1c%        Lượng glucose huyết thanh  Lượng glucose huyết thanh
                   trung bình được ước tính      trung bình được ước tính
6%                        126mg/dL                          7.0mmol/L
7%                        154mg/dL                          8.6mmol/L
8%                        183mg/dL                         10.2mmol/L
9%                        212mg/dL                         11.8mmol/L
10%                      240mg/dL                         13.4mmol/L
11%                      269mg/dL                         14.9mmol/L
12%                      298mg/dL                         16.5mmol/L

Mức A1c đề xuất cho trẻ em và thanh thiếu niên bị bệnh tiểu đường tuýp 1:
Độ tuổi                                      A1c%
Trẻ em dưới 6 tuổi                     Dưới 8.5%
Trẻ em từ 6–12 tuổi                   Dưới 8%
Thanh thiếu niên từ 13-19 tuổi   Dưới 7.5%

Dấu hiệu sớm của bệnh tiểu đường là tinh tế. Đó là lý do tại sao việc kiểm tra bệnh là rất quan trọng nếu có một hoặc nhiều yếu tố nguy cơ nêu trên. Các triệu chứng của bệnh tiểu đường có thể bao gồm khát nước, đi tiểu thường xuyên, mờ mắt, cảm thấy yếu và mệt mỏi, khô miệng, tê và ngứa ran ở tay và chân.


D-Những dấu hiệu bệnh đường-huyết cao qúa hay thấp qúa gây ra bệnh:


Các triệu chứng của lượng đường trong máu cao trên 300mg/dL bao gồm:

Insulin chịu trách nhiệm đưa lượng đường trong máu cao trở lại bình thường.
Đường cao do 2 nguyên nhân: Ăn uống nhiều đường qúa, hay trong người thiếu insulin.

Lượng đường trong máu quá cao trên 300mg/dl thường xuyên, tăng nhịp tim nhanh, thân nhiệt tăng, cảm thấy rất khát, uống nhiều mà vẫn mất nước và mệt mỏi, mờ mắt, giảm cân nhanh và phải đi vệ sinh thường xuyên, Lượng đường trong máu rất cao có thể cảm thấy đau bụng, ngất xỉu hoặc nôn mửa. Nó có thể khiến cơ thể mất quá nhiều chất lỏng .

Theo thời gian, lượng đường trong máu rất cao có thể dẫn đến các triệu chứng sau:
Đi tiểu thường xuyên hơn bình thường: Thận phản ứng với lượng đường trong máu cao bằng cách cố gắng loại bỏ glucose dư thừa theo mước tiểu ra ngoài nên gọi là đái tháo đường là dấu hiệu tốt, vì khi chức năng thận tốt, đường dư thừa bị đào thải bớt ra khỏi cơ thể, nên có ngày có và có ngày không có bị đái tháo ra đường..
Khát quá mức đi kèm với đi tiểu thường xuyên: Thận có thể gây mất nước và cảm giác khát dữ dội khi cố gắng điều chỉnh lượng đường trong máu.
Cảm thấy đói quá mức khi lượng đường trong máu cao không trực tiếp gây ra cảm giác đói. Tuy nhiên, giảm insulin hay thiếu insulin làm đường huyết tăng, thường gây ra cơn đói khi nó đi kèm với lượng đường trong máu cao.
Giảm cân không giải thích được, ngứa, da khô, mệt mỏi, khó tập trung , mờ mắt, táo bón hoặc tiêu chảy, rối loạn cường dương

Các triệu chứng của lượng đường trong máu thấp từ 100-70mmg/dL gây ra bệnh đối với các bộ phận cơ thể, dưới 60mg/dL có nguy cơ tử vong. :

Chúng ta tìm trên google, đánh những đề tựa như dưới đây, sẽ thấy Google cung cấp nhiều tái liệu chuyên môn để tham khảo, đi tìm chân lý, sự thật về bệnh thiếu đường gây ra nhiều bệnh nguy hại cho cơ thể như thế nào .

a-Hypoglycemia and the central nervous system ?

Đường huyết thấp ảnh hưởng đến thần kinh trung ương:
Đường huyết xuống mức dưới bình thường  100mg/dL=  5,6mmol/l:
Làm tăng đáng kể nguy cơ hạ đường huyết. Hạ đường huyết vừa phải có thể ảnh hưởng sâu sắc đến khả năng nhận thức, dẫn đến tình trạng choáng váng và nhầm lẫn tạm thời.

Triệu chứng của lượng đường trong máu thấp vừa phải :
Đói bụng, run tay chân, ngái ngủ, chóng mặt và nhức đầu, bối rối hoặc lo lắng, xuất mồ hôi, cáu kỉnh. Một số người gặp khó khăn khi nói và cũng cảm thấy yếu đuối.
Đổ mồ hôi (hầu như luôn luôn có mặt) ở sau gáy, ở chân, thần kinh, run rẩy và yếu đuối. rất đói và buồn nôn nhẹ, mờ mắt. nhịp tim nhanh .
Những triệu chứng này có thể biến mất ngay sau khi ăn thực phẩm có chứa đường.

Hạ đường huyết nặng dưới 70mg/dL=3.9mmol/l
Não cần một nguồn cung cấp glucose liên tục để duy trì nhu cầu trao đổi chất. Nếu việc cung cấp glucose lên não không đủ, có thể dẫn đến co giật té ngất xỉu, parkinson, động kinh, hôn mê và thậm chí tử vong do suy não, chết hệ thống thần kinh trung ương.
Ngoài biến chứng cấp tính của hạ đường huyết, bệnh nhân thường lo lắng về việc nhiều đợt hạ đường huyết nghiêm trọng tái phát té ngất xỉu hay bị ung thư bướu sọ não.
Không có khả năng tập trung, nhầm lẫn và cáu kỉnh, nói lắp, bất ổn khi đứng hoặc đi lại,
co giật cơ bắp, thay đổi tính cách, chẳng hạn như tức giận hoặc khóc, bỗng dưng đau lưng, mất sữa cho con bú. Nếu người mẹ khi đang mang thai mà đường huyết thấp, có thể sinh con bị bệnh tự kỷ.

Các triệu chứng của lượng đường trong máu thấp nghiêm trọng bao gồm:
Động kinh, mất ý thức (hôn mê), sốc, tử vong

Dấu hiệu hạ đường huyết vào ban đêm :
Một nửa trong số các sự kiện hạ đường huyết xảy ra vào ban đêm, Hạ đường huyết trong khi ngủ có thể không bị phát hiện, dẫn đến giảm mức đường huyết và có thể dẫn đến bất tỉnh hoặc tử vong
Nếu lượng đường trong máu giảm trong khi đang ngủ, người nhà trong gia đình có thể nhận thấy rằng người bệnh đang đổ mồ hôi và có hành vi cư xử khác bình thường. Các dấu hiệu của lượng đường trong máu thấp vào ban đêm (hạ đường huyết về đêm) bao gồm:

Bồn chồn, tạo ra những tiếng động bất thường như ngáy to, ú ớ ác mộng, mộng du, xuất mồ hôi, cố gắng ra khỏi giường hoặc vô tình lăn ra khỏi giường.
Khi thức dậy với cơn đau đầu vào buổi sáng nếu lượng đường trong máu thấp trong đêm.

Dấu hiệu hạ đường huyết không nhận thức :
Một số người không có triệu chứng đường huyết thấp. Triệu chứng duy nhất có thể có là nhầm lẫn, hoặc có thể bị bất tỉnh.

Trong khi tập thể dục cường độ vừa phải từ 30 phút trở lên, có thể thay insulin chữa bệnh đường huyết cao, đường sẽ bị đốt cháy chuyển thành năng lượng làm giảm lượng đường trong máu.

b-Diabetic Neuropathy Symptoms

Triệu chứng bệnh thần kinh tiểu đường

Triệu chứng bệnh lý thần kinh ngoại biên
Bệnh lý thần kinh ngoại biên ảnh hưởng đến các dây thần kinh dẫn đến tứ chi. Chân, tay và cánh tay. Các dây thần kinh dẫn đến bàn chân là dài nhất trong cơ thể, vì vậy chúng là những dây thần kinh bị ảnh hưởng thường xuyên nhất :
Đau và tê cũng là dấu hiệu cảnh báo quan trọng để chăm sóc đôi chân rất tốt, vì vậy có thể tránh các vết thương và nhiễm trùng khó chữa lành và thậm chí tăng nguy cơ cắt cụt chi.

Đau đớn, cảm giác bỏng rát, như kim đâm hoặc như điện giật, tê (mất cảm giác), ngứa, yếu cơ, chuột rút cơ bắp, co giật, da không nhạy cảm biết đau hay nóng, các triệu chứng trở nên tồi tệ hơn vào ban đêm.

Triệu chứng bệnh thần kinh tự trị bao gồm

Hệ tim mạch
Chóng mặt ngay sau khi đứng, ngất xỉu ngay sau khi đứng, nhịp tim không đều, nhanh chóng cảm thấy mệt mỏi và yếu khi tập thể dục.

Hệ thống tiêu hóa
Đầy hơi, táo bón, hay tiêu chảy, buồn nôn, nôn, cảm thấy no ngay sau khi bạn bắt đầu ăn. cảm giác rằng thức ăn không được di chuyển qua hệ thống tiêu hóa được gọi là gastroparesis là rối loạn tiêu hóa làm tê liệt một phần bao tử, trào ngược thực quản.
Sự thay đổi lượng đường trong máu lớn (vì thức ăn được tiêu hóa đang đến ruột, nơi glucose được hấp thụ vào máu, vào những thời điểm không đều).

Mắt
Vấn đề về thị lực vào ban đêm hoặc trong khi thay đổi ánh sáng đột ngột (ví dụ: khi bước vào một tòa nhà tối từ ánh sáng mặt trời)

Hệ thống sinh sản
Vấn đề tình dục, rối loạn cương dương ở nam giới; khô âm đạo ở phụ nữ; Khó đạt cực khoái cho cả hai.

Tuyến mồ hôi
Chảy mồ hôi, đặc biệt là vào ban đêm hoặc khi ăn các loại thực phẩm đặc biệt (phô mai thường gây ra mồ hôi quá nhiều, ví dụ, mặc dù điều đó không đúng với mọi người mắc bệnh thần kinh tiểu đường). Giảm mồ hôi, đặc biệt là ở chân và bàn chân, da khô, bong tróc, mỏng, rụng tóc.

Hệ thống tiết niệu
Không kiểm soát, đi tiểu thường xuyên hoặc khẩn cấp, tiểu đêm thường xuyên, khó tiểu.
Thức dậy thường xuyên vào ban đêm để đi tiểu
Những người mắc bệnh thần kinh tự trị cũng có thể gặp khó khăn khi nhận ra khi lượng đường trong máu của họ quá thấp, điều này đặc biệt nguy hiểm đối với những người mắc bệnh tiểu đường. Điều này được gọi là hạ đường huyết, không nhận thức được, và xảy ra khi phản ứng bình thường với lượng đường trong máu thấp (đổ mồ hôi, run rẩy, v.v.)

Triệu chứng thần kinh gần bao gồm :
Bệnh thần kinh gần, ảnh hưởng đến mông, hông, đùi và chân.
Yếu ở chân, rắc rối đứng lên từ một vị trí ngồi mà không có sự giúp đỡ. Đột ngột đau dữ dội ở hông, đùi trên và / hoặc mông ở một bên của cơ thể
Đau hoặc yếu ở cánh tay sau khi các triệu chứng ở chân bắt đầu cải thiện

Triệu chứng thần kinh khu trí từng vùng gồm có :

Bệnh thuộc đầu, mặt.
Tầm nhìn rắc rối, song thị, đau sau mắt, khó tập trung, đột ngột tê liệt 1 bên méo miệng
 (Bellals palsy)

Ở thân người :
Đau ở ngực, bao tử, đau hông, thắt lưng

Chân :
Đau ở phía trước đùi, đau ngoài ống chân, bên trong bàn chân

c-Neurologic damage in hypoglycemia.

Tổn thương thần kinh trong hạ đường huyết.

Hạ đường huyết xảy ra ở bệnh nhân tiểu đường do hậu quả của việc điều trị bằng thuốc hạ đường huyết liều cao, ở bệnh nhân insulinoma là u tụy nội tiết lành tính ở đảo tụy do sản xuất insulin quá mức và ở trẻ sơ sinh là kết quả của sự điều hòa chuyển hóa bất thường.
Hạ đường huyết sâu có thể gây rối loạn cấu trúc và chức năng ở cả thần kinh trung ương (CNS=central nervous system) và hệ thần kinh ngoại biên (PNS=peripheral nervous system).
Não bị tổn thương do một đợt hạ đường huyết ngắn và nghiêm trọng, trong khi bệnh lý PNS xuất hiện sau một giai đoạn nhẹ và kéo dài. Trong hệ thần kinh trung ương, ty thể bị tổn thương, nồng độ Ca2 (+) nội bào tăng cao, giải phóng cytochrom (là phân tử protein điện từ) chuyển thành cytosol (là chất lỏng nội bào), sản xuất rộng rãi superoxide hay gọi là O2, tăng hoạt tính caspase-3, giải phóng aspartate và glutamate từ các  tế bào thần kinh .tế bào chết trong não.

Xem xét PNS hệ thần kinh ngoại biên, hạ đường huyết mãn tính có liên quan đến vận động chậm và vận tốc cảm giác ở các dây thần kinh ngoại biên. Liên quan đến bệnh lý, bệnh lý thần kinh hạ đường huyết ở PNS được đặc trưng bởi sự thoái hóa sợi trục giống như thân hoa bắt đầu từ đầu dây thần kinh và tiến đến một phần gần nhất của sợi trục, và sợi trục vận động đến cơ bắp có thể bị tổn thương nghiêm trọng hơn so với sợi trục cảm giác. Do các chất dẫn truyền thần kinh bị kích thích chủ yếu liên quan đến tế bào thần kinh trong hệ thần kinh trung ương, nên mô hình tổn thương sợi trục "chết dần" này trong PNS có thể liên quan đến các cơ chế khác ngoài độc tính kích thích.

d-Hypoglycemia, functional brain failure, and brain death
Hạ đường huyết, suy não chức năng và chết não

Hạ đường huyết thường gây ra thiếu hụt đường nuôi não, dẫn đến suy não chức năng, có thể được điều chỉnh bằng cách tăng nồng độ glucose huyết tương.
Hạ đường huyết, bao gồm hạ đường huyết do sai lầm của thầy thuốc=iatrogen ở người mắc bệnh tiểu đường, gây ra sự thiếu hụt nhiên liệu glucose cho não nếu không được kiểm soát sẽ dẫn đến suy não chức năng thường được điều chỉnh sau khi tăng nồng độ glucose huyết tương, nếu thiếu glucose não sẽ thiếu khí oxy lâu dài  gây cho não chết.

Giá trị sống còn của việc duy trì nồng độ glucose trong máu là cần thiết. Theo dõi sự kiện lâm sàng ít xẩy ra ngoại trừ ở những người bệnh tiểu đường sử dụng thuốc làm giảm nồng độ glucose huyết tương mới  bị đường huyết thấp hypoglycemia.
Gây hạ đường huyết, phần lớn các trường hợp, do vi phạm thuốc tiết insulin để điều trị bệnh tiểu đường. hạ đường huyết là yếu tố phải hạn chế trong việc điều trị bệnh tiểu đường . Nó sẽ gây ra bệnh tái phát ở hầu hết những người bị bệnh tiểu đường đôi khi gây tử vong.

Hơn nữa, hạ đường huyết, cũng như tập thể dục làm hạ đường huyết làm tổn hại thêm đến sự phòng vệ đường huyết bằng cách gây ra sự thất bại trong điều trị liên quan đến hạ đường huyết và do đó gây ra một chu kỳ hạ đường huyết tái phát.
Cuối cùng, hạ đường huyết làm ngăn cản việc duy trì nồng độ glucose bình thường trong máu trong suốt cuộc đời của người bệnh tiểu đường.

Suy não chức năng
Glucose là nhiên liệu trao đổi chất bắt buộc cần cho não do não không thể tổng hợp glucose hoặc lưu trữ một lượng đáng kể dưới dạng glycogen trong tế bào hình sao, nên não đòi hỏi một nguồn cung cấp glucose gần như liên tục từ tuần hoàn máu. Sự khuếch tán glucose được tạo điều kiện từ máu vào não là một chức năng trực tiếp của nồng độ glucose huyết tương động mạch. Tốc độ vận chuyển glucose từ máu đến não ở người trưởng thành là 750ml/phút hoặc tăng hơn bình thường, nhưng nó giảm và trở nên hạn chế chuyển hóa glucose vào não, khi nồng độ glucose động mạch giảm xuống mức thấp gây thiếu hụt glucose làm suy não.

Trình tự các phản ứng với nồng độ glucose huyết tương giảm sẽ kích hoạt sự bảo vệ chống lại hạ đường huyết :

Cơ thể tự động giảm xuất insulin nội khi  nồng độ glucose trong máu giảm  (khoảng 3,9-6,1 mmol/l (70-110 mg/dl).
Ngưỡng đường huyết khi giảm bài tiết insulin là khoảng 4,5 mmol/l (81mg/dl).
Khi đường huyết giảm xuống ngưỡng bằng khoảng 3,8mmol/l (68mg/dl). tức khắc các phản ứng thần kinh xuất glucagon bài tiết epinephrine của tuyến thượng thận để làm tăng gluocose trong máu.

Ngược lại, nếu các biện pháp phòng vệ này không thể tái lập quân bình đường huyết trở lại bình thường mà nồng độ glucose vẫn thấp hơn, cơ thể sẽ kích hoạt phản ứng giao cảm mạnh hơn gây ra các triệu chứng rối loạn thần kinh thực vật xảy ra ở cùng một mức glucose (ngưỡng bằng khoảng 3,0 mmol/l (54mg/dl) sẽ có dấu hiệu nuốt phải thức ăn., nếu nồng độ glucose thấp hơn nữa gây ra suy não chức năng quá mức có thể tiến triển từ suy giảm nhận thức có thể đo lường được (ngưỡng bằng khoảng 2,8mmol/l (50 mg / dl) đến các hành vi bất thường, co giật và hôn mê. là 2,3-2,7mmol/l (41-49 mg/dl) cũng như ở mức glucose thấp hơn. Nhưng trên thực tế đường huyết hạ thấp 50mg/dl là đã bị tử vong, tim ngưng đập.
Tất cả các phản ứng này thường được điều chỉnh khi tăng nồng độ glucose huyết tương.

Nhiều rối loạn thần kinh có liên quan đến việc tăng nguy cơ gãy xương (gãy xương) vì chúng làm tăng nguy cơ ngã, mất xương hoặc cả hai. Chúng bao gồm bại não, đa xơ cứng, bệnh Parkinson, chấn thương tủy sống, đột quỵ, nhầm lẫn (do mất trí nhớ hoặc mê sảng), chóng mặt và yếu cơ bắp chi dưới.

Bệnh thần kinh (tê hoặc giảm cảm giác) của bàn chân hoặc chân cũng có thể dẫn đến sự cân bằng kém. Điều này bao gồm bệnh thần kinh tiểu đường, đau thần kinh tọa và các loại bệnh thần kinh khác.

e-What disease does the stomach lack of glucose?
Bao tử thiếu đường gây ra bệnh gì ?

Điều quan trọng nhất là dây thần kinh phế vị, điều khiển rất nhiều chức năng của bao tử.

Đau tim và tiểu đường
Thuật ngữ "đốt tim" ( heart burn) rất dễ gây hiểu lầm, vì nó không liên quan gì đến trái tim. Là bệnh bao tử xảy ra khi acid bao tử tiếp xúc với thực quản, có dấu hiệu bị ợ nóng do hậu quả của các dây thần kinh kiểm soát cơ thắt thực quản dưới, hoặc van ở lối vào của bao tử.
Điều này có nghĩa là sau bữa ăn, đặc biệt là nếu nằm xuống, cơ thắt thực quản dưới không thắt chặt đủ acid trào ngược vào thực quản có thể bị bỏng và cảm thấy khó chịu hoặc đau đớn.

Một tình trạng gây ra bởi sự thoái hóa tương tự của dây thần kinh phế vị là bệnh bao tử, đó là sự bất lực của bao tử không co bóp đẩy thức ăn vào ruột, thức ăn đọng trong bao tử lâu sẽ no lâu hơn lên men tạo thành bệnh heart burn.

f-What disease does the liver lack of glucose?
Gan thiếu đường gây ra bệnh gì ?

10 dấu hiệu tổn thương gan
Home Ailments Liver
Bởi Bác sĩ Chung Hân Đồng
Cập nhật: ngày 12 tháng 3 năm 2019

Kiểm tra thực tế
Gan nằm dưới lồng xương sườn bên phải bụng. Nó lọc máu từ đường tiêu hóa, giúp chuyển hóa thức ăn, thuốc và hóa chất, loại bỏ độc tố và chất thải và tổng hợp các protein thiết yếu. Cơ quan này có khả năng bù đắp đáng kể khi bị hư hỏng. Tuy nhiên, tổn thương gan mạn tính không được điều trị có thể tiến triển thành suy gan. Nguyên nhân gây tổn thương gan bao gồm tiêu thụ quá nhiều rượu, thuốc men, nhiễm virus và các tình trạng tự miễn dịch và di truyền.

Dấu hiệu tổn thương gan:

1-Thay đổi sự thèm ăn
Gan bị tổn thương gặp khó khăn trong việc chuyển hóa chất béo và protein từ thực phẩm. Sản xuất mật có thể chậm lại, gây khó khăn cho việc đối phó với các bữa ăn béo. Ngoài ra, nếu tổn thương gan là mãn tính hoặc nghiêm trọng, các mạch trong thực quản và bao tử có thể giãn ra. Trong một số trường hợp, các mạch giãn có thể bị chảy máu. Những người bị tổn thương gan mãn tính cũng có thể bị buồn nôn, ói mửa và khó chịu cho bữa ăn nhiều chất béo và protein.

2. Thay đổi làn da
Tổn thương gan có thể gây ra thay đổi nội tiết tố, từ đó gây ra sự giãn nở của các mạch máu nhỏ. Những tĩnh mạch mạng nhện đáng chú ý nhất trên mặt và thân. Một vết đỏ của da mặt, lòng bàn tay và bàn chân cũng rất phổ biến và thường là kết quả của sự thay đổi hormone, thiếu vitamin hoặc tăng áp lực trong hệ thống mạch máu. Trong tổn thương gan tiến triển, vàng da có thể làm cho da có màu vàng. Vàng da xảy ra khi một sản phẩm thải, mật, tích tụ thay vì được chuyển hóa ở gan. Chỉ số mật cao liên tục có thể là dấu hiệu của bệnh gan cấp tính hoặc tiến triển. Tuy nhiên, bilirubin cũng có thể tăng trong các điều kiện y tế khác.

3. Tập trung mệt mỏi và khó khăn
Một lá gan bị tổn thương phải làm việc cực kỳ chăm chỉ để thực hiện nhiều chức năng của nó. Điều này có thể dẫn đến mệt mỏi hoặc các vấn đề với sự tập trung vì gan đang lọc chất độc chậm hơn bình thường. Gan có thể chuyển hóa thức ăn chậm chạp khó hấp thụ các chất dinh dưỡng cần thiết để duy trì sự hoạt động tổng thể. Bệnh gan tiến triển có thể dẫn đến bệnh não và gan - tổn thương não do nồng độ chất độc trong cơ thể cao.

4. Sưng bụng
Mặc dù gan bị tổn thương có thể bù hoặc tái tạo, hình dạng và kích thước của gan có thể thay đổi. Những thay đổi này có thể làm cho gan lớn hơn làm tăng kích thước của bụng. Bệnh gan tiến triển hoặc xơ gan cũng có thể dẫn đến sưng trong khoang bụng hoặc cổ trướng. Sưng này là do giảm protein trong máu, khiến chất lỏng rời khỏi mạch và tích tụ trong bụng và các khoang cơ thể khác. Nó cũng gây ra bởi sự gia tăng áp lực trong tĩnh mạch mang máu từ các cơ quan tiêu hóa đến gan.

5. Thay đổi trong chuyển động ruột
Khi gan phải vật lộn để thực hiện quá trình tiêu hóa có thể chậm lại và cơ thể có thể cố gắng bù đắp lượng độc tố tăng lên bằng cách bài tiết chúng qua ruột. Điều này có thể gây táo bón hoặc tiêu chảy. Trong các giai đoạn sau của tổn thương gan, gan không còn có thể sản xuất và xử lý mật và bilirubin (là chất lỏng mầu vàng cam do sự phân hủy bình thường của té bào máu đỏ) khiến cho phân của nó có màu nâu. Kết quả là, phân trở nên nhạt màu hơn.

Tuy nhiên, khi mức đường huyết giảm trong thời gian dài nhanh, glycogen lưu trữ trong gan sẽ giảm dần nên cần phải thêm nguồn đường trong máu.
Để giúp bù đắp sự thiếu hụt này, gan, cùng với thận, sử dụng acid amin, acid lactic và glycerol để sản xuất glucose.

Gan cũng có thể chuyển đổi các loại đường khác như sucrose, fructose và galactose thành glucose nếu cơ thể không có glucose do chế độ ăn kiêng, thì gan sản xuất ra đường ketone từ chết béo để thay thế cung cấp cho não, hồng cầu và các bộ phận của thận.
Giống như glucose, việc sản xuất ketone trong gan được kiểm soát bởi hormone glucagon.

g-What disease does the bone lack of glucose ?
Thiếu glucose xương bị bệnh gì ?

Các rối loạn xương và khớp khác nhau, chẳng hạn như tổn thương thần kinh (bệnh thần kinh tiểu đường), bệnh động mạch và béo phì, có thể góp phần vào những vấn đề này

Charcot chung
Khớp Charcot (shahr-KOH), còn được gọi là bệnh khớp thần kinh, xảy ra khi khớp bị thoái hóa do tổn thương thần kinh - một biến chứng phổ biến của bệnh tiểu đường. Charcot khớp chủ yếu ảnh hưởng đến bàn chân.
Có dấu hiệu bị tê và ngứa ran hoặc mất cảm giác ở các khớp bị ảnh hưởng. Chúng có thể trở nên ấm, đỏ và sưng và không ổn định hoặc biến dạng. Các khớp liên quan có thể không đau nhiều.

Hội chứng bàn tay tiểu đường
Hội chứng bàn tay tiểu đường, còn được gọi là bệnh sán dây do tiểu đường, là một rối loạn trong đó da trên bàn tay trở nên giống như sáp và dày lên. Cuối cùng cử động ngón tay bị hạn chế. Nó phổ biến nhất ở những người bị tiểu đường trong một thời gian dài.

Có dấu hiệu không thể mở rộng hoàn toàn các ngón tay hoặc ấn hai lòng bàn tay vào nhau.

Loãng xương
Loãng xương là một rối loạn khiến xương trở nên yếu và dễ bị gãy. Những người mắc bệnh tiểu đường loại 1 có nguy cơ mắc bệnh loãng xương, có dấu hiệu giảm chiều cao, khòm lưng hoặc gẫy xương.

Viêm xương khớp
Viêm xương khớp là một rối loạn khớp đặc trưng bởi sự phá vỡ của sụn khớp. Nó có thể ảnh hưởng đến bất kỳ khớp nào trong cơ thể bạn. Những người mắc bệnh tiểu đường loại 2 có nguy cơ mắc bệnh xương khớp, có khả năng là do béo phì - một yếu tố nguy cơ của bệnh tiểu đường loại 2 - chứ không phải do chính bệnh tiểu đường, có dấu hiệu đau khớp, sưng cứng khớp.

DISH=xương vô căn (Diffuse Idiopathic Skeletal Hyperostosis )
Tăng sản xương vô căn (DISH), còn được gọi là bệnh Forestier, là chứng cứng gân và dây chằng thường ảnh hưởng đến cột sống. DISH có thể liên quan đến bệnh tiểu đường loại 2, có lẽ do insulin hoặc các yếu tố tăng trưởng giống như insulin thúc đẩy sự phát triển xương mới, có dấu hiệu cứng đau ở cột sống, lưng, cổ

Bệnh Dupuytren
Là bệnh gây ra các nốt sần, cục u hoặc bướu nhỏ dưới da ngón tay và lòng bàn tay. Bệnh có thể làm cho các ngón tay mắc kẹt lại. Bệnh thường xuất hiện ở ngón đeo nhẫn và ngón tay út và gây ra làm cho các khớp có chiều dài ngắn hơn bình thường, cong và không thẳng hàng, l một biến dạng trong đó một hoặc nhiều ngón tay uốn cong về phía lòng bàn tay. Nó gây ra bởi sự dày lên và sẹo của mô liên kết trong lòng bàn tay và ngón tay, phổ biến ở những người bị tiểu đường trong một thời gian dài, có lẽ do những thay đổi trao đổi chất liên quan đến bệnh tiểu đường, xó dấu hiệu da dầy trên lòng bàn tay không thể co duỗi ngón tay.

Vai đông lạnh
Vai đông lạnh là một tình trạng đặc trưng bởi đau vai và phạm vi chuyển động hạn chế. Nó thường chỉ ảnh hưởng đến một vai. Mặc dù nguyên nhân thường không được biết, bệnh tiểu đường là một yếu tố nguy cơ phổ biến, có dấu hiệu vai đông lạnh gây đau khi cử động vai, cứng khớp vai 1 bên. và giảm phạm vi chuyển động.
Một bệnh viêm khớp, viêm khớp dạng thấp thường được điều trị bằng glucocorticoids, thường là prednison. Đau và mất chức năng khớp có thể dẫn đến không hoạt động, điều này có thể góp phần thêm vào việc mất xương. Nghiên cứu cho thấy rằng hoạt động hủy xương (một tế bào loại bỏ xương) và sự tái hấp thu xương được tăng lên tại các vị trí bị ảnh hưởng. Ngoài viêm khớp dạng thấp, viêm cột sống dính khớp có liên quan đến mất xương. Một số tình trạng thấp khớp khác có thể ảnh hưởng đến khớp, dẫn đến cân bằng kém và tăng nguy cơ té ngã, bao gồm lupus, viêm khớp vẩy nến và viêm xương khớp nghiêm trọng ở hông hoặc đầu gối.

Bệnh hấp thụ kém :
Hấp thu kém có thể là kết quả của các bệnh đường ruột như bệnh Crohn, viêm loét đại tràng và bệnh celiac (là bệnh gần như dị ứng với gluten của lúa mì) làm ruột non kém hấp thụ chất dinh dưỡng từ ruột bao gồm calci và các vitamin  gây ra thiếu máu, sẽ mọc khối u trở thành ung thư, hoặc kém hấp thụ do các tình trạng khác ảnh hưởng đến ruột như phẫu thuật giảm cân. Những điều kiện này làm giảm sự hấp thụ các chất dinh dưỡng từ ruột bao gồm calci và vitamin chế độ ăn uống, có thể làm tăng mất xương và nguy cơ té ngã, dẫn đến gãy xương.

HYPOGONADISM Suy tuyến sinh dục
Ở phụ nữ, điều này thường dẫn đến việc ngừng kinh nguyệt sớm (vô kinh). Các nguyên nhân phổ biến bao gồm mãn kinh sớm (trước 45 tuổi), rối loạn ăn uống như chán ăn tâm thần, vô kinh do tập thể dục (thường thấy ở vận động viên và vũ công hiệu suất cao), bệnh tuyến yên, hóa trị và bệnh mãn tính.
Ở nam giới mức testosterone thấp có thể được gây ra bởi một số điều kiện bao gồm bệnh gan, bệnh tuyến yên, hóa trị liệu, bệnh mãn tính và lão hóa.

Tăng năng tuyến giáp
Các tuyến cận giáp sản xuất hormone tuyến cận giáp, kiểm soát mức calci trong máu. Trong cường cận giáp nguyên phát, một khối u lành tính ở một hoặc nhiều tuyến này gây ra việc sản xuất nhiều hormone tuyến cận giáp hơn mức cần thiết. Điều này dẫn đến giải phóng calci dư thừa từ xương và tăng mức độ calci trong máu. Do đó, nguy cơ loãng xương và gãy xương cũng tăng lên.

Bệnh thận mãn tính
Nhiều bệnh nhân mắc bệnh thận mãn tính được điều trị bằng glucocorticoids như prednison, khiến họ có nguy cơ mắc bệnh loãng xương. Ngoài ra, bệnh thận mãn tính có thể gây ra một số bệnh xương chuyển hóa khác nhau (được gọi là loạn dưỡng xương do thận) có liên quan đến việc giảm sự hình thành xương, cường cận giáp và thiếu vitamin D. Trong chất lượng xương tủy xương chất lượng xương kém, và điều này làm tăng nguy cơ gãy xương.

Bệnh gan mãn tính
Bệnh gan mãn tính có liên quan đến việc giảm sự hình thành xương, thiếu vitamin D và hormone giới tính thấp, tất cả đều có thể dẫn đến mất xương. Ngoài ra, một số dạng bệnh gan có thể được điều trị bằng glucocorticoids như prednison, có thể gây mất xương thậm chí còn lớn hơn. Có tới 50% bệnh nhân mắc bệnh gan mạn tính bị loãng xương.

Bệnh loãng xương do đường huyết thấp
Có bằng chứng cho thấy rằng cả nam giới và phụ nữ mắc bệnh tiểu đường loại 1 đều có nguy cơ cao về mật độ xương thấp và gãy xương do loãng xương. Bệnh tiểu đường loại I và II được kiểm soát kém thường liên quan đến các cơn hạ đường huyết (lượng đường trong máu thấp) và / hoặc bệnh thần kinh (cảm giác kém) ở bàn chân. Cả hai biến chứng của bệnh tiểu đường đều có thể làm tăng nguy cơ té ngã và gãy xương.

COLD Bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính
Là một loại bệnh phổi mãn tính thường xảy ra sau khi hút thuốc kéo dài nhưng cũng có thể xảy ra do các nguyên nhân khác. có thể bao gồm viêm phế quản mãn tính hoặc khí phế thũng hoặc cả hai, và thường liên quan đến ho mãn tính, sản xuất đờm, khó thở khi gắng sức hoặc khi nghỉ ngơi (tùy theo mức độ nghiêm trọng) và nhiễm trùng ngực thường xuyên. Có mối liên quan chặt chẽ giữa bệnh này và khối lượng xương thấp hoặc loãng xương, thường là do sự kết hợp của các yếu tố như tiền sử hút thuốc, trọng lượng cơ thể thấp, dinh dưỡng kém và điều trị bằng glucocorticoids uống.


h-Hypoglycemia (Low Blood Sugar) in People Without Diabetes
Điều gì gây ra hạ đường huyết ở những người không mắc bệnh tiểu đường?

Lượng đường trong máu thấp khi thực sự đói hoặc tập thể dục nặng mà không đủ đường. Điều này xảy ra với gần như tất cả mọi người theo thời gian. Thật dễ dàng để tự điều chỉnh cho tăng đường huyết và thường không có gì phải lo lắng.

Nhưng lượng đường trong máu thấp, hoặc hạ đường huyết, cũng có thể là một vấn đề đang diễn ra. Nó xảy ra khi mức độ đường trong máu giảm quá thấp để cung cấp năng lượng cho cơ thể.
Nguyên nhân gây ra bởi : Thuốc, bệnh gan thận, tuyến tụy, rượu, phẫu thuật bao tử... có dấu hiệu bệnh nặng nhẹ tùy thuộc mức độ đường thiếu ít hay nhiều :

Hạ đường huyết nhẹ có thể cảm thấy đói hoặc muốn nôn, bồn chồn hoặc lo lắng. Tim có thể đập nhanh, đổ mồ hôi. hoặc da trở nên lạnh và khó chịu.
Hạ đường huyết vừa phải thường khiến mọi người cảm thấy nóng tính, lo lắng, sợ hãi hoặc bối rối. Tầm nhìn có thể mờ đi,  cảm thấy không ổn định hoặc gặp khó khăn khi đi bộ.
Hạ đường huyết nặng có thể bất tỉnh, bị co giật, thậm chí có thể gây hôn mê hoặc tử vong.
Nếu bị hạ đường huyết trong đêm, có thể thức dậy mệt mỏi hoặc đau đầu, có thể gặp ác mộng, đổ mồ hôi quá nhiều vào ban đêm đến nỗi đồ ngủ hoặc khăn trải giường bị ẩm ướt khi thức dậy.

Nếu hạ đường huyết nhẹ hoặc trung bình không được điều trị ngay lập tức, nó có thể biến thành hạ đường huyết nặng. Những người bị hạ đường huyết nặng thường bị chết âm thầm trong lúc ngủ, không được thống kê, do kiêng đường lại còn bị dùng thuốc hạ đường do sai lầm của thầy thuốc.